Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lắng Nghe Lời Phật Thoát Mọi Phiền Hà

20 Tháng Chín 201511:00(Xem: 10247)
Lắng Nghe Lời Phật Thoát Mọi Phiền Hà
LẮNG NGHE LỜI PHẬT THOÁT MỌI PHIỀN HÀ

Diệu Thanh

Lắng Nghe Lời Phật Thoát Mọi Phiền HàThế tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta . Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta . Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta . Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta .”

Những thổ lộ trên là cảm niệm của Tỳ -kheo Udàyi về ân đức ban bố giới luật của Đức Phật, sau khi tự thân đã trải qua nhiều chuyện phiền toái do lối sống thiếu tiết độ . Tự thân có nếm trải và nhận ra bao chuyện rắc rối do tính tùy tiện trong sinh hoạt và ứng xử hằng ngày tạo ra thì mới cãm nhận được tinh thương và sự ân cần chu đáo cùa bậc Đạo sư , được thể hiện qua chế độ giáo dục khá khắt khe của Ngài , nhất là việc Ngài quan tâm uốn nắn từng li từng tí các thói quen sinh hoạt hằng ngày cho các đệ tử . Phật ban hành giới luật , quy định nếp sống kỷ cương tiết độ cho người xuất gia , không gì khác hơn để mang lại tự doan lạc cho các học trò mình.

Trong phương pháp huấn luyện đệ tử , Đức Phật chú ý thiết lập giới luật cho hàng xuất gia, thực sự để giúp cho cá nhân các Tỳ- Kheo thực hành đúng đạo lý giải thoát , nghĩa là thực hiện nếp sốngkỷ cương tiết độ , thuận tiện cho việc tu tập thân tâm đạt đến an lạc giải thoát , giữ gìn các hành vi của thân, lời và ý theo đúng Bát Chánh Đạo . Căn bản của giới luật nhà Phật là thực hánh “ thiếu dục tri túc “ nhằm ngăn ngừa và khắc phục các hành vi sai trái hoặc các thói quen xấu gây trở ngại cho sự tu tiến của bản thân , tránh gây phiền hà cho người khác hay cho đời sống tập thể . Các hành vi sai trái hay các thói quen tiêu cực của con ngưởi có nguồn gốc từ lòng tham dục .Ví dụ , do chiều chuộng các ham muốn giác quan hay các đòi hỏi của cơ thể mà con người ham ăn ham ngũ ; do kich thích cảm giác được ca tụng tâng bốc mà con người đua đòi chưng diện…

Thấy rõ hậu quả phiền toái tiềm ẩn trong các thói quen như vậy , Đức Phật chú ý tập cho các đệ tử mình một lối sống giúp cho họ tự khắc phục và loại trừ những ham muốn tiêu cực , Ngài huấn luyện các học trò mình rất kỹ , quy định đến cả việc ăn mặcchừng mực . Lẽ tất nhiên , người biết kềm chế bản thân , sống với hạnh thiếu dục tri túc thì khong6n có nhiều yêu cầu , không đua đòi , ít lăng xăng bận rộn , không bị các ham muốn ràng buộc, luôn luôn thanh thản và cảm nhận tự do. Phật gọi lối sống kỷ cương tiết độ như vậy là Pàtimokkha , có nghĩa là thoát khỏi cái phiền toái khổ não do hành vi sai trái hay thói quen ham muốn tiêu cực gây nên . Pàtimokkha cũng có nghĩa là “ biệt giải thoát ”, ngụ ý rằng khắc phục được một ham muốn thì con người sẽ có được một sự giải thoát hay tự do , vì không còn ham muốn đó chi phối khiến các hành vi sai trái đưa đến hậu quả khổ đau . Giới luật nhà Phật là thực hiện lối sống an lạc, có công năng loại trừ các phiền não khổ đau, và đem lại cho con người sự tự do , thanh thản .

Trong sinh hoạt hằng ngày , chúng ta gặp nhiều chuyện phiền toái mà xét cho cùng thì đếu do thói quen ham muốn tạo ra . Chỉ một việc ăn uống không thôi cũng mang đến cho ta lắm chuyện phiền hà nếu ta khong6t kiểm soát được sở thích của mình .Ăn uống vốn là việc khá giản dị trong đời sống hằng ngày , ngày nay đã trở thành mối bận tâm đối với nhiều người vì nhiều lý do chủ quan lẫn khách quan .Thói quen hưởng thụ khiến người tiêu dùng ngày nay cảm thấy băn khoăn khi phải đối diện với thực trạng thực phẩm thiếu vệ sinh và không an toàn cứ tiếp tục chi phối và chiếm lĩnh thị trường bởi những nhà kinh doanh khao khát lợi nhuận , “ Cái này sinh thì cái kia sinh ”, tập quán hưởng thụ đã kích thích thói quen gian dối .

Với kinh nghiệm của bậc Giác Ngộ , Đức Phật nêu rõ cuộc sống chỉ là chuỗi hành vitính cách thói quen mà nếu được uốn nắn đều trở thành đừng đắn , giản dị và thanh thoát . Từ chuyện ăn chuyện mặc cho đến suy nghĩ , nói năng hay hành động , tất cả đều là thói quen để có thể được uốn nắn điều chỉnh theo chiều hướng tốt đẹp .Đã chiến thắng mọi ham muốn , Đức Phật cũng tập cho đệ tử của mình có thói quen sống cho chừng mực và hành xử đứng đắn . Ngài đánh giá cao ý chí tự điều chỉnh của mỗi cá nhân, cho rằng ai cũng có khả năng khắc phục ham muốn tiêu cực của bản thân để được thanh thản tự do , dễ nuôi sống , ít lăng xăng bận rộn, không phạm sai lầm , sống với tâm tư hồn nhiên hoam hỷ , Nhờ sống chừng mựcđiều độ , bỏ được thói quen không ăn đêm , mà Đức Phật cảm thấy ít bệnh , ít não ,khinh an ,có sức khỏe tốt và sống an lạc ;do đó , Ngài khuyên các đệ tử tập sống có tiết độ để thực nghiệm lợi lạc :

“ Này các Tỳ -kheo , Ta ăn , từ bỏ ban đêm , Này các Tỳ -kheo , do từ bỏ ăn ban đêm , Ta cảm thấy ít bệnh , ít não, khinh an , có sức lựcan trú , Này các Tỳ-kheo , do từ bỏ ăn ban đêm, các Thầy sẽ cảm thấy ít bệnh , ít não , khing an , có sức lựcan trú

Đây là lợi ích thiết thực mà chính Đức Phật đã trải nghiệm nhờ điều phục các ham muốn của bản thân , Phật là người đã tu tập , đã thực nghiệm nếp sống giải thoát an lạc và mong muốn chia sẽ kinh nghiệm cho người khác . Vì thế mà lời Phật là lẽ sống thực tiễn là “ thiết thực hiện tại” , đền để mà thấy “ được người có tri tự mình giác hiểu “ . Thế nên , người nào biết lắng nghe và thực hành theo lời Phật thì nhất định sẽ cảm nghiệm được tự dolợi lạc . Tâm sự của Tỳ -kheo Udàyi sau đây nói cho chúng ta biết lời Phật là bài học thực tiễnchúng ta ai biết lắng nghe và nỗ lực thực tập thì sẽ tránh được nhiều rắc rối phiền hà phát sinh bởi thói quen trong sinh hoạt hàng ngày :

“Bạch Thế Tôn, trong khi con đang độc cư Thiền Tịnh , sự suy tư sau đây đã khởi lên trong tâm trí con : “Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta .Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta

Bạch Thế Tôn, thuở trước , chúng con thường ăn buổi chiều , buổi sáng , ban ngày và phi thời . Bạch Thế Tôn ,thời ấy Thế Tôn gọi các Tỳ-kheo vào bảo :”này các Ty-kheo. Hãy từ bỏ ăn ban ngày phi thời ”Bạch Thế Tôn ,giữa chúng con , những ai nhìn Thế Tôn với lòng ái mộ, với lòng tôn kính và với lòng tâm quý , liền từ bỏ ăn ban ngày phi thời .

Rồi bạch Thế Tôn , chúng con thường ăn buổi chiều và buổi sáng , Bạch Thế Tôn, thời ấy Thế tôn gọi các Tỳ-kheo vào và bảo :“Này các Tỳ -kheo , hãy từ bỏ ăn ban đêm phi thời ”…Bạch Thế Tôn , giữa chúng con , những ai nhìn thế Tôn với lòng ái mộ , với lòng tôn kính và với lòng tâm quý , kiền từ bỏ ăn ban đêm phi thời .

Thuở trước, bạch Thế Tôn , các vị Tỳ-kheo thường đi khất thực trong đêm đen tối tăm .Họ bước lầm vào vũng nước nhớp, rơi vào vũng nước nhớp , đi lầm vào hàng rào gai , đi lầm vào chỗ con bò cái đang ngủ , gặp các loại đạo tặc đã hành sự , gặp các người đàn bà mời mọc một cách bất chánh . Thuở trước , bạch Thế Tôn, con đi khất thực trong đêm đen tối tăm. Một người đàn bà đang rửa chén bát , thấy con trong khi trời chớp nhoáng liền hoảng sợ và hét lớn :”Ôi kinh khủng thay cho tôi ,có con quỷ chaỵ theo tôi ”Bạch Thế Tôn , khi nghe nói vậy con có nói với người đàn bà ấy :”này chị, không phải quỷ đâu , đây là Tý –kheo đang đứng khất thực ”Cha Tỳ -kheo hãy chết đi!! Mẹ Tỳ-kheo hãy chết đi ! Này Tỳ -kheo , thật tốt hơn cho ông nếu ông lấy con dao sắc bén của người đồ tể cắt bụng của ông, còn hơn là vì lỗ bụng đi khất thực trong ban đêm tối tăm .”

Bạch Thế Tôn , khi con nhớ như vậy , con suy nghĩ như sau : “ Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều khổ pháp cho chúng ta , Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều lạc pháp cho chúng ta . Thế Tôn thật sự là vị đã đoạn trừ nhiều bất thiện pháp cho chúng ta . Thế Tôn thật sự là vị đã mang lại nhiều thiện pháp cho chúng ta .”

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1335)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 753)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 846)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1138)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1246)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1103)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1319)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1464)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1197)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant