Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tứ Diệu Đế, Bài Thiền Quán Số 2

23 Tháng Mười Một 201505:50(Xem: 9510)
Tứ Diệu Đế, Bài Thiền Quán Số 2
TỨ DIỆU ĐẾ - BÀI THIỀN QUÁN SỐ 2

Lozang Ngodrub, Lozang Pema

Tứ Diệu Đế, Bài Thiền Quán Số 1
1. Nguồn gốc của Khổ
2. Diệt Khổ
3. Con Đường giác ngộ

1. NGUỒN GỐC CỦA KHỔ

Nghiệp:

  • Sau khi đã quán chiếu về khổ như ta đã làm, ta phát tâm mong ước được thoát khổ vĩnh viễn.
  • Hãy nghĩ nỗi khổ của ta phát sinh từ một nguyên nhân như thế nào, nguyên nhân này là một tiềm lực trong tâm, tạo thành từ những hành động ta đã làm trước đó.
  • Còn những hành động của ta thì bị thúc đẩy do sự phiền não - giận dữ, kiêu hãnh, chấp thủ v.v…
  • Những tâm trạng tiêu cực khiến ta gây hại đến các chúng sanh khác.
  • Hãy quán chiếu xem ngay cả một sự khó chịu nhỏ nhặt với một người nào đó có thể dần dần trở thành giận dữ, khiến ta đả kích người bằng hành động hay lời nói nặng.
  • Nguồn gốc của những động lực phiền não này là vô minh, bám víu vào cái ngã.
  • Dựa vào sự vô minh này, ta bám chặt vào ‘mình’ và ‘người ta’ như những hiện hữu cố nhiên.
  • Căn cứ vào đây, ta cố gắng hỗ trợ ‘mình’ và những ai liên hệ với ‘mình’ và phương hại những ai muốn hại ‘mình’.
  • Hãy quán chiếu xem mỗi người chúng ta bám vào những khái niệm kiên cố về cái cố hữu ‘mình’ và ‘người ta’ như thế nào.
  • Vì vậy, để chấm dứt đau khổ do những hành động này tạo ra, ta phải cắt tận gốc rễ của những nguyên nhân tạo khổ - đó là vô minh.


2. DIỆT KHỔ

  • thể diệt khổ hay không? Có gì đối kháng được với nguồn gốc của khổ?
  • Quán chiếu bằng cách này, ta nhận thấy rằng trí huệ nhận thức sự vô ngã đối kháng trực tiếp với vô minh.
  • Trí huệ tựa như bật đèn trong căn phòng tối, khi đèn vừa sáng lên, bóng tối không thể tồn tạingọn đèn là sự đối kỵ trực tiếp với bóng tối.
  • Vì có cách để đối kháng với nguồn gốc của vô minh, ta thấy rằng có thể loại bỏ tất cả những điều phát khởi từ vô minh - như những phiền não khác, nghiệp

và khổ.

  • Nếu bạn không muốn có một cây kết trái độc trong vườn sau nhà, bạn chặt hết gốc rễ của nó, nó sẽ không thể mọc lại và kết trái nữa.
  • Tương tự như vậy, bằng cách phát triển sự đối kháng với vô minh, ta sẽ chấm dứt những điều phát khởi từ vô minh.


3. CON ĐƯỜNG GIÁC NGỘ

  • Nếu ta chỉ cố gắng phát triển trí huệ nhận thức vô ngã thì đã đủ chưa?
  • Để phát triển đầy đủ trí huệ đối kháng trực tiếp với vô minh, tức nguồn gốc của luân hồi, ta phải đạt được Kiến Đạo (Con Đường Thấy).
  • Để đạt được điều này, ta cần phương pháp về Con Đường tu để hỗ trợ cho trí huệ của mình.
  • Do đó, ta cần tâm thoát luân hồi, và đối với Đại Thừa, ta cũng cần tâm giác ngộ.
  • Nếu ta phát triển tâm giác ngộ, tâm thoát luân hồi sẽ được bao gồm trong đó.
  • Để bắt đầu, trước tiên ta cần phát triển tâm bình đẳng đối với mọi chúng sanh.
  • Rồi quán chiếu tất rằng cả chúng sanh đã từng là mẹ của ta như thế nào.
  • Nhớ lại lòng tốt của chúng sanh đối với ta khi làm mẹ ta.
  • Phát triển nguyện vọng đền đáp lòng tốt ấy.
  • Vì cách hay nhất để báo đáp lòng tốt ấy là ước mong họ được hạnh phúc, hãy phát triển lòng mong muốn mang lại niềm hạnh phúc tốt đẹp nhất cho tất cả chúng sanh.
  • Nhận thấy rằng, là những người bình thường như ta, họ cũng đau khổ, do đó hãy phát nguyện giải thoát chúng sanh khỏi mọi đau khổ.
  • Hiểu được cách tốt nhất để hoàn thành ước nguyện này, ta hãy phát triển ý nguyện mạnh mẽ tự mình gánh lấy nhiệm vụ làm vơi đi nỗi khổ và mang đến hạnh phúc cho chúng sanh.
  • Thấy rằng đạt được Phật quả là cách tốt nhất để thực hiện ý nguyện này, hãy phát tâm ước nguyện đạt thành Phật quả vì lợi ích của tất cả chúng sanh.
  • Khi ước nguyện này phát sinh một cách tự nhiên và dễ dàng trong mọi lúc, hành giả đã bước vào Con Đường Tích Đức.
  • Con Đường này, cùng với Con Đường Chuẩn Bị, chuẩn bị để ta đạt được sự đối kháng trực tiếp với vô minh mà ta sẽ thực chứng trên Con Đường Thấy (Kiến Đạo).
  • Kết hợp trí huệ này và sự thực hành 6 Phẩm Hạnh Toàn Hảo, ta dần dần đạt được Phật quả, sự chấm dứt cuối cùng, khi tất cả những nguồn gốc của khổ cùng với những chủng tử và dấu ấn của chúng được loại bỏ hoàn toàn, và ta đạt được khả năng ban phúc lợi cho tất cả chúng sanh, không có ngoại lệ.



Ghi chú: Xin hồi hướng công đức đến sự toàn giác của tất cả chúng sinh. Mọi sai sót là lỗi của người dịch. Quan Âm Thiền Phật Học Viện, Lozang Ngodrub, Lozang Pema dịch và hiệu đính tại Brisbane, Queensland. Tài liệu phân phát nhân dịp Ani Lozang Tsewang hướng dẫn bàn luận và thiền luận về đề tà̀i trên tại Chùa Linh Sơn, 89 Rowe Terrace, Darra Queensland, và̀o ngày 21 tháng 7 năm 2007. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 780)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 737)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 734)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 681)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 785)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 752)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 687)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 799)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 718)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 712)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 768)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 704)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 959)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 744)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 796)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 937)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1408)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 956)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 995)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 927)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 794)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 749)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 764)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 625)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1292)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1170)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1135)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1087)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1198)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1142)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1227)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1153)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1034)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1070)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1155)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1125)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1239)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1133)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1207)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1195)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1105)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1173)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1157)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1748)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1147)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1175)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1087)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1288)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1173)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant