Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cho Sự Không Sợ Hãi

18 Tháng Sáu 201412:28(Xem: 9847)
Cho Sự Không Sợ Hãi

Cho sự không sợ hãi
Nguyên Trâm

cho-su-khong-so-hai-300x357_0“Cho sự không sợ hãi” là một tâm thái hiểu biết và thương quý cuộc sống; chẳng những hết thảy mọi người đều có thể thực hiện mà còn cần cần quan tâm nỗ lực thực hiện trong đời sống hàng ngày, vì lợi ích của bản thânlợi lạc cho tha nhân. Trong giáo lý của đạo Phật, “cho sự không sợ hãi” được xem là một hạnh nguyện cao quý gọi là vô úy thí (abhada-dàna), là Thánh hạnh (Ariya-cariyà), thiện hạnh (kusala- cariyà), tức là một món quà tặng lợi lạc thầm lặng mà mỗi người có thể trao tặng cho cuộc đời, được thể hiện qua lối sống đạo đức hiền thiện, không làm điều xấu ác. Trong đời sống sinh hoạt hàng ngày, Đức Phật khuyên dạy mọi người nên trao tặng cho nhau “món quà an tịnh” (santamupahàram), ngụ ỳ một nếp sống hiểu mình thương người bằng cách nỗ lực làm mọi điều tốt lành, tránh làm điều xấu ác gây lo âu tổnhại cho người khác. Sống trong một xã hội đang diễn biến phức tạp đi đôi với các hiện tượng tiêu cực xấu ác không ngừng phát sinh gây nên nhiều tâm lý lo lắng bất an cho đời sống con người như hiện nay thì việc mỗi cá nhân biết kiềm chế bản thân, tự khép mình vào một lối sống đạo đức căn bản như việc thực hành năm giới cấm của đạo Phật – không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu – chính là sự thể hiện tâm thái hiểu biết và thương quý cuộc sống, rất đáng được mọi người quan tâm phát huy. Đức Phật đánh giá cao một tâm thái cao quý như vậy và gọi đó là “cho sự không sợ hãi” (vô úy thí), tức thể hiện một lối sống đạo đức trong sáng và hiền thiện tạo niềm tin yêu an ổn cho cuộc sống, khiến cho người khác thoát khỏi mọi lo âu sợ hãi.

Bố thí (dàna) là một trong cá hạnh tu tập thể hiện tâm thái cao quý của người con Phật. Nó là dấu hiệu tuôn chảy của tâm từ bi hay lòng bi mẫn đối với cuộc đời. Bố thí có nghĩa là quà tặng, đem cho ai cái gì, mang bình yên cho người khác, hay giúp cho người khác được hạnh phúc lợi lạc. Bố thí được xem là hạnh tu của người con Phật bởi đó là việc làm hiền thiện xuất phát từ sự hiểu biết, tình thương, lòng nhân ái, sự cảm thông, tâm từ bi, mong muốn cho người khác vượt qua mọi khó khăn gian nan vất vả. Nó cũng được xem là tâm thái cao quý bởi bố thínghĩa cử ban phát cao thượng, hành vi của tâm từ bi, vô ngã vị tha, quan tâm nhiều đến người khác, mong muốn cho mọi người thoát khỏi khổ đau, đạt được hạnh phúc an lạc. Cuộc đời có lắm gian nan khổ đau nên luôn luôn cần đến nhiều tấm lòng sẻ chia và cứu giúp. Người con Phật được khuyên nuôi dưỡng đức từ bi đối với cuộc đờithể hiện đức từ bi bằng các hành vi bố thí.

Đạo Phật nói đến ba loại bố thí gồm tài thí (àmisa-dàna), pháp thí (dhamma-dàna) và vô úy thí (abhada-dàna). Về ý nghĩa cơ bản, tài thí là hiến tặng vật thực, cung cấp phương tiện lao động hay tạo điều kiện làm ăn sinh sống cho người khác. Pháp thíchỉ bảo cho người khác hiểu rõ về đạo lý nhân quả thiện ác, khuyến khích người khác bỏ ác hướng thiện, tu nhân tích đức. Vô úy thí tức là tỏ rõ tấm lòng tư bi, tôn trọng người khác bằng cách thực thi nếp sống đạo đức hiền thiện, không làm điều xấu ác, không gây tổn hại, tránh cho người khác khỏi mọi lao âu sợ hãi. Tùy vào nhân duyên, điều kiệntâm nguyện của mỗi người mà việc bố thí có thể được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau. Chẳng hạn, người có đủ điều kiện về tài lực thì dễ thực hiện hàng vi tài thí. Ngưới có nhân duyên hiểu sâu, hành sâu về đạo lý giác ngộ thì có thể chia sẻ với người khác về mặt pháp thí. Trong khi một người không có đủ hai điều kiện trên, chỉ có tâm nguyện sống nếp sống đạo đức hướng thiện, tránh làm điều xấu ác, không gây tổn hại cho bản thân và người khác, thì được gọi là vô úy thí, tức đem cho người khác sự không sợ hãi. Nhìn chung, mọi người đều có khả năng thực hành hạnh bố thí và điều đó là hết sức cần thiếtlợi lạc cho đời sống cộng đồng.

Có thể nhận ra rằng ba hình thức bố thí được đề xuất bởi đạo Phật chính là sự trợ duyên thiết thựctốt đẹp nhất mà hết thảy mọi người, nhất là người con Phật, cần nỗ lực thực hiện vì nó mang ý nghĩa lợi lạc to lớn cho cuộc đời. Nó giúp cải thiện điều kiện và môi trường sống của chúng sinh, khiến cho chúng sinh được vui sống trong hạnh phúc yên ổn (vô úy thí); giúp soi sáng đạo lý giải thoát cho chúng sinh, khiến cho chúng sinh vững tin bước đi trên con đường giác ngộ an lạc (pháp thí). Ba hình thức bố thí hay chia sẻ nói trên vừa là dấu hiệu tỏ rõ tinh thần từ bi của người con Phật đối với cuộc đời nói chung, vừa phản ánh thái độ sáng suốt của đạo Phật đối với thực tại “cộng sinh” của hiện hữu. “Làm điều tốt cho mình tức là hộ trì người khác. Làm điều tốt cho người khác tức là hộ trì cho mình”. Đạo Phật quan niệm cuộc sống là một hợp thể của các yếu tố nhân duyên vận hànhtồn tại hỗ tương, trong đó bất kỳ hành vi nào của con người, dù thiện hay ác, đều trực tiếp hoặc gián tiếp ảnh hưởngtác động lên toàn thể hiện hữu. Chính vì vậyđạo Phật rất chú trọng đến cơ sở đạo đức trong mọi hành vi của cá nhân, khuyến khích mọi người tích lũy điều thiện, xem đó là nền tảng căn bản cho sự vận hành tốt đẹp và hài hòa của xã hộithế giới. Bố thí – dù dưới hình thức nào, hoặc tài thí, pháp thí, vô úy thí – chính là hành vi đạo đức hiền thiện, có ý nghĩa tác dụng tích cực đến cuộc sống tiến bộ hiền thiện chung của xã hội. Người con Phật được khuyên thực hành hạnh bố thí bởi bố thíhành vi đạo đức hướng thượng, một hành tu cao đẹp, đưa đến lợi mình, lợi người, lợi lạc cho cuộc đời.

Bạn mong muốn được đóng góp một điều gì đó tốt đẹp cho người khác và cho xã hội nhưng bạn cảm thấy mình không có đủ điều kiện để thực hiện việc hỗ trợ hay chia sẽ? Bạn cho rằng mình không thoải mái về mặt tài chính, không có đủ đức độ để hướng thiện cho người khác và vì vậy bạn không thể thực hành hạnh bố thí? Hãy lắng nghe và suy ngẫm những lời dạy hết sức căn bản sau đây của Đức Phật và bạn sẽ nhận ra rằng, ngoài tài thípháp thí, chính nếp sống đạo đức hiền thiện – không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không uống rượu – của mỗi cá nhân cũng là một cách bố thí (vô úy thí), có tác dụng hỗ trợ tích cực, giúp ích rất lớn cho cuộc đờimọi người cần quan tâm thực hiện, vì lợi lạc của bản thânlợi ích cho người khác:

“Này các Tỷ-kheo, có năm bố thí này, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, được biết là truyền thống cổ xưa, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường. Thế nào là năm?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ nhất, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ hai, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ ba, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem c ho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ ba, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận đắm say rượu me, rượu nấu, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem c ho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỷ-kheo, đây là bố thí thứ ba, là đại bố thí, được biết là tối sơ, được biết là lâu ngày, trước không tạp loạn, hiện tại không tạp loạn, tương lai không tạp loạn, không bị những Sa-môn, những Bà-la-môn có trí khinh thường”.

(Văn Hóa Phật Giáo)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 769)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1090)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1264)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 991)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1331)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 750)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 801)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 934)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 820)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 977)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 988)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1001)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 944)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 982)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 946)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1001)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1134)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1152)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 961)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1259)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1363)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1462)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1343)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1196)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1295)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant