Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Mê Vui Trong Khổ Não

07 Tháng Sáu 201423:00(Xem: 9749)
Mê Vui Trong Khổ Não

MÊ VUI TRONG KHỔ NÃO
Nguyên Thiện

me-vui-kho-naoKinh Pháp Cú số 69 nêu một thực trạng đáng thương đáng trách của người si mê thiếu trí. Đó là việc đi tìm vị ngọt trong các hành động ác, chìm đắm mê say trong ác dục, không thấy hậu quả nguy hại của ác nghiệp, kết quả là người đó phải chịu khổ đau do các ác nghiệp mà mình đã làm, đã tích tập. Nguyên văn lời Phật như sau:

Người ngu thấy là ngọt,
Khi ác chưa chín muồi;
Ác nghiệp chín muồi rồi
Người ngu chịu khổ đau”.

Cụ thể hơn trong khi giảng về một lối sống gọi là Pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ”, Đức Phật nói rõ cho chúng ta biết có những người sống tìm vui trong sát sanh, trong lấy của không cho, trong tà hạnh, trong nói láo, trong nói hai lưỡi, trong nói lời độc ác, trong nói lời phù phiếm, trong tham ái, trong sân hận, trong tà kiến. Họ vui thú khi làm các ác nghiệp như vậy và sống với cảm giác vui thú ấy, quên mất rằng cảm giác vui thú nhất thời ấy là nguyên nhân của mọi bất hạnh khổ đau đang rình rập. Kết quả là chính các ác nghiệp ấy đưa đẩy họ rơi vào cõi dữ, ác thú, đạo xứ, địa ngục:

“Này các Tỳ kheo, có người với lạc, với hỷ, sát sanh và do duyên sát sanh, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc, với hỷ lấy của không cho và do duyên lấy của không cho, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ sống theo tà hạnh trong các dục, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ, nói lời vọng ngữ; cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ, nói lời hai lưỡi và do duyên nói lời hai lưỡi, cảm thọ lạc và hỷ, với lạc với hỷ, nói lời ác ngữ, và do duyên nói lời ác ngữ, cãm thọ lạc và hỷ, và do duyên nói lời phù phiếm, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ có tâm tham ái, và do duyên có tâm tham ái, cảm thọ lạc và hỷ. Với lạc với hỷ, có tâm sân hận và do duyên có tâm sân hận, cảm thọ lạc và hỷ; với lạc với hỷ, có tà kiến, cảm thọ lạc và hỷ. Vị này sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú đọa xứ địa ngục. Như vậy này các tỳ kheo, gọi là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ” 1.

Giảng giải về lý do lối sống chạy theo ác dục hay say vui trong ác hạnh ấy, Đức Phật nói rằng, “do vô trí, do si mê nên không biết như chân: “đây là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ”. Do vô trí với pháp này, do si mê co không tuệ trí như chân, nên phục vụ pháp này, không tránh né pháp này. Vì phục vụ pháp này, vì không tránh né pháp này, nên đối với vị này, các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý tăng trường: các pháp khả ái, khả lạc khả ý bị tiêu diệt. Vì sao vậy? Như vậy, này các Tỳ kheo, là vì vị ấy không có trí đối với pháp này. Này các tỳ kheo, ví như bình đồng đựng nước uống, có sắc, có hương, có vị mà nước uống ấy có tẩm thuốc độc. Rồi một người đến muốn sống, muốn không chết, muốn ưu lạc, hiềm ghét khổ, và có người nói với người ấy như sau: “Này bạn, bình đồng đựng nước uống này, có sắc, có hương, có vị, và nước uống ấy có tẩm thuốc độc. Nếu bạn muốn, hãy uống. Trong khi uống bạn sẽ được thích thú về sắc, về hương, về vị.. sau khi uống, bạn có thể đi đến chết hay hay đau khổ gần như chết”: Người kia có thể uống, không suy nghĩ, không từ bỏ. Trong khi uống, người ấy được thích thú về sắc, về hương, về vị. sau khi uống, người ấy có thể đi đến cái chết hay đau khổ gần như chết. Này các tỳ kheo, ta nói pháp hành động giống như ví dụ ấy, tức là pháp hành hiện tại lạc, tương lai quả báo khổ”2

Lời Phật dạy nói cho chúng ta biết rằng, sự thiếu hiểu biết về thiện hay bất thiện, hay sự mê mờ về nhân quả thiện ácnguyên nhân của lối sống ác hạnh, khổ đau. Mặc khác lời Phật cũng gián tiếp lưu nhắc chúng ta cái xấu đôi khi cũng có sức hấp dẫn đối với con người, nghĩa là làm ác hay sống theo ác dục cũng có vị ngọt (hay nghĩ tưởng nhầm lẫn là ngọt?) nên mới có người chạy theo cảm giác vui thú nhất thời ấy mà bất chấp việc ác. Chỉ đến khi ác nghiệp chín muồi rồi thì (người vô trí, kẻ ác) mới thấy ác, nhưng mọi chuyện bây giờ đã quá muộn 3.Thái độ mê nhầm này là hết sức đáng tiếc và có gốc rễ của nó. Đó là tà kiến hay quan điểm sai lầm cho rằng không có kết quả của các nghiệp thiện ác, chẳng hạn, cũng theo lời Phật. “…Có một số Sa môn, Bà la môn thuyết giảng như sau, có sở kiến như sau: ‘không có lỗi trong các dục’. Những vị này đắm mình trong các dục, hoan lạc với các cô gái lang thang có tóc quấn trên đầu. Họ nói như sau: ‘Làm sao các tôn giả Sa môn, Bà la môn kia thấy sự sợ hãi tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về các dục. Khoái lạc thay, sự xúc chạm với bàn tay có lông mịn, của các cô gái lang thang trẻ trung này!”. Sau khi đắm mình trong các dục, khi thân hoại mạng chung, các vị ấy phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Ở đây, họ cảm thọ những cảm giác đau khổ, khốc liệt, họ nói như sau: “ các tôn giả Sa môn, Bà la môn này thấy sự sợ hãi tương lai của các dục, nói đến sự đoạn trừ các dục, nêu lên sự hiểu biết về các dục. Nhưng chúng ta, do các dục này làm nhân, do các dục này làm duyên, phải cảm thọ những cảm giác đau khổ, thống khổ khốc liệt”4.

Quả là hết sức nguy hại cho đời sống khi rơi vào ý tưởng điên đảo cho rằng các dục không có lỗi hay nhầm tưởng vị của các dục là ngọt, vì sự mê lầm ấy sẽ mở cửa và khuyên khích lối sống buông thả theo bản năng dục vọng. Đức Phật gọi một ý tưởng hay cảm giác như vậy, là điên đảo, si mê, vô tri, vì nó khiến cho con người hoàn toàn mê mờ, điên đảo, say vui trong tai họa khổ đau, không biết rõ ác dục, vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm càng nhiều hơn, nhầm lẫn cảm giác vui thú nhất thời với tai họa khổ đau lâu dài. Nói khác đi, do mê mờ về nhân quả không thấy rõ quy luật nhân quả báo ứng hay không tin diễn tiến nhân quả của các nghiệp thiện ác nên con người tự nuôi lấy tà kiến, có thái độ xem thường luật nhân quả, bất chấp đạo lý, dễ dàng làm mọi việc xấu ác để thỏa mãn dục vọng. Kết quả là theo lời đức Phật dạy “các pháp bất khả ái, bất khả lạc, bất khả ý (tức khổ não) tăng trưởng; các pháp khả ái, khả lạc, khả ý (nghĩa là an lạc), bị tiêu diệt trong người ấy, và vị ấy phải chịu khổ đau bất hạnh lâu dài”.

Để ngăn tránh lối sống tai họa khổ đau như vậy, Phật khuyên dạy mọi người phải biết tu tập, tự kềm chế bản thân, không sống đời phóng dật, không mê say dục lạc, đồng thời nên thân cận gần gũi các bậc Thánh hay các bậc thiện trí thức để học hỏi Chánh pháp và để phát khởi niềm tin về thiện pháp. Nhờ học hỏi chánh pháp nên thoát khỏi tà kiến mê lầm, đặc biệt nhờ hiểu rõ đạo lý nhân quả và được cũng cố bởi niềm tin về nhân quả thiện áccon người biết rõ đâu là thiện nên theo và đâu là ác nên từ bỏ. Đó chính là thái độ sáng suốt mở đường cho nếp sống hiền thiện an lạc của người hiền trí vậy.

Chú thích:

  1. Đại kinh Pháp hành, Trung Bộ.
  2. Đại kinh Pháp hành, Trung Bộ
  3. Kinh Pháp cú, Kệ số 119.
  4. Tiểu kinh Pháp hành, Trung Bộ.
  5. Tạp Chí Văn Hóa Phật Giáo số 113
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 792)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 979)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 921)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1003)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1248)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 965)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1321)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1466)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1255)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant