Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ẩn sĩ lừa dối

03 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 18617)
Ẩn sĩ lừa dối

blank

Trong khi trú tại tinh xá Kỳ Viên, đức Thế Tôn kể câu chuyện này về một kẻ lừa đảo.

* * *

Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am gần một ngôi làng ở vùng biên địa. Vị này đã chứng được năm Thắng trí và rất được dân làng kính trọng. Trong khi đó, Tắc kè sống tại một gò mối nằm ở cuối con đường mà vị ẩn sĩ đi kinh hành, và mỗi ngày hai hoặc ba lần Tắc kè đi đến chỗ ẩn sĩ để nghe giảng pháp. Và vì kính trọng bậc giới đức này nên Tắc kè đã rời bỏ trú xứ của mình để đến đấy sống. Sau một thời gian, vị ẩn sĩ tạm biệt dân làng và ra đi. Khi vị này đi rồi, có một ẩn sĩ giả dối đến thảo am ấy sống. Nghĩ rằng người mới đến này cũng đầy đủ giới đức, Tắc kè đã đối xử với ông ta như đối với vị ẩn sĩ trước đây.

Một hôm, vào mùa khô hạn, một cơn mưa dông bất chợt đổ xuống và trận mưa đã làm cho những con kiến bò ra khỏi tổ. Rồi khi những con tắc kè bò ra ngoài để ăn kiến, chúng đã bị dân làng bắt đi rất nhiều. Chúng được xào trộn với dấm và đường để đem cúng cho vị ẩn sĩ. Khoái khẩu với món ăn này, vị ẩn sĩ bèn hỏi đó là món thịt gì và được trả lời cho biết đó là món thịt tắc kè.

Nghe thế, vị ẩn sĩ nghĩ ngay đến con Tắc kè xinh đẹp sống gần thảo am của mình và quyết định giết chết nó để ăn thịt. Thế là ông ta chuẩn bị sẵn xoong chảo cùng với gia vị để xào nấu thịt tắc kè. Rồi dấu một cái vồ bên dưới chiếc y, ông ta ngồi nơi cửa thảo am chờ Tắc kè đến với một thái độ hết sức bình thản. Vào buổi chiều, Tắc kè đi đến. Và khi đi đến gần, Tắc kè nhìn thấy vị ẩn sĩ ấy hoàn toàn không giống với thường ngày: ông ta ngồi chờ mình với một thái độ báo hiệu điều gì đó không tốt sắp xảy ra. Đứng phía dưới ngọn gió từ hướng thảo am của vị ẩn sĩ, Tắc kè ngửi thấy mùi thịt tắc kè, và ngay lập tức nhận ra rằng chính mùi vị thịt tắc kè đã khiến cho ẩn sĩ kia muốn dùng vồ giết mình ăn thịt. Vì thế, Tắc kè bèn quay lại hang của mình mà không viếng thăm vị ẩn sĩ nữa. Nhìn thấy Tắc kè không đến, vị ẩn sĩ nghĩ rằng Tắc kè chắc đã đoán biết mưu đồ của mình, và ông ta phân vân không biết vì sao Tắc kè lại biết được điều đó. Quyết không để Tắc kè trốn thoát, vị ẩn sĩ liền rút cái vồ ra và ném vào Tắc kè, nhưng cái vồ chỉ trúng vào mút đuôi. Nhanh như cắt, Tắc kè chạy vội vào hang, rồi sau đó thò đầu ra một cái lỗ khác và nói:

- Này kẻ lừa dối bất lương kia, y áo của người đã khiến cho ta tin ngươi, nhưng bây giờ ta biết được bản chất thấp hèn độc ác của ngươi. Một kẻ ăn cướp như ngươi thì có xứng đáng khi khoác y áo ẩn sĩ không?

Quở trách vị ẩn sĩ lừa dối như vậy xong, Tắc kè đọc lên bài kệ này:

Tóc bện cùng với y vỏ cây
Phải chăng bắt chước vị trước đây?
Ngươi thật không phải người giới hạnh
Dơ bẩn xấu xa ngươi chứa đầy.

Bằng bài kệ này, Tắc kè đã vạch trần tâm địa độc ác xấu xa của vị ẩn sĩ, rồi sau đó rút vào trong gò mối. Còn vị ẩn sĩ khổ hạnh độc ác kia sau đó đã bỏ đi nơi khác.

* * *

Kết thúc pháp thoại, đức Thế Tôn nhận diện Tiền thân:

- Thuở đó, kẻ lừa dối này là ẩn sĩ độc ác, Xá-lợi-phất là vị ẩn sĩgiới hạnh mà trước đó đã sống ở thảo am, còn ta chính là con Tắc kè.
(Tiền thân Godha, số 138, dịch từ bản tiếng Anh)

Lời bàn:

Khoác lên mình chiếc áo của một người tu, bề ngoài tỏ ra có đầy đủ đức hạnh, nhưng bên trong lại đầy tham dụcdối trá thì đây là một kẻ nguy hiểm và đáng sợ nhất. Bởi vì với một hình thức bề ngoài như vậy, kẻ này rất dễ dàng đánh lừa người khác, vì thói thường người ta vẫn hay nhìn nhận người khác qua hình tướng bên ngoài. Câu chuyện Tiền thân trên đây là một minh chứng cho điều đó:

Vị ẩn sĩ kia là một kẻ đầy tham dục, lòng còn chứa đầy dối trá, nhưng với y áo và cái lốt của một ẩn sĩ, ông ta đã dễ dàng đánh lừa được tắc kè trong một thời gian dài. Và tắc kè, vì tin tưởngtôn kính, chút nữa đã bị mất mạngcon người này. Nhưng may cho tắc kè là cuối cùng nó đã kịp phát hiện ra được bản chất của con người này. Và lời mà tắc kè nói với vị ẩn sĩ được trích dẫn lại sau đây là điều khiến chúng ta cần phải suy ngẫm, và cũng là bài học được rút ra từ câu chuyện này: “Này kẻ lừa dối bất lương kia, y áo của người đã khiến cho ta tin ngươi, nhưng bây giờ ta biết được bản chất thấp hèn độc ác của ngươi. Một kẻ ăn cướp như ngươi thì có xứng đáng khi khoác y áo ẩn sĩ không?”

Nguồn: Tập San Pháp Luân 16

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2206)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1705)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2019)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1720)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1719)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1889)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1900)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1556)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1728)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2064)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1813)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2380)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1711)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1711)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1672)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2117)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1942)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2082)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1622)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2236)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1591)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1870)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1753)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1817)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1654)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2396)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2110)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2057)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1859)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2212)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1790)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1909)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2140)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1673)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1933)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1926)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2145)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1919)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1762)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1747)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1748)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1860)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2152)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1706)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1678)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2244)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1951)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1771)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2341)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1949)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant