Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hoa Sen trước gió

07 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 14970)
Hoa Sen trước gió


Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên. Nó vươn dậy trổ hoa, tỏa hương và làm thành “giới hương bất tử” lan tỏa vào không gian, đi vào trong sử sách. Đó là hoa sen, tên hiệu của một vị thiền sư nổi tiếng thời nhà Nguyễn, thiền sư Liên Hoa.

Thiền sư Liễu Đạt – Thiệt Thành, hiệu Liên Hoa (?- 1823), (hiệu này do vua Minh Mạng phong cho) tên họ là gì? Sinh năm nào và quê quán ở đâu thì không thấy sử sách ghi chép. Chỉ biết thiền sư “viên tịch” trong một hoàn cảnh hết sức đặc biệt, “tự thiêu” để bảo toàn phẩm hạnh của người xuất gia?

Thiền sư Liễu Đạt – Thiệt Thành thuộc phái thiền Lâm Tế, đời thứ 35, là đệ tử của thiền sư Minh Vật - Nhất Tri (?- 1786), có lẽ thiền sư xuất gia tu học với thiền sư Minh Vật - Nhất Tri ở chùa Kim Cang (Bình Thảo, Đồng Nai)? Do tư chất thông minh và phẩm hạnh nghiêm mật nên được vua xuống sắc, triệu ra kinh đô Huế để giữ chức Tăng cang chùa Thiên Mụ (1813-1823) và được cử làm pháp sư giảng thuyết Phật pháp trong nội cung của vua Gia Long. Và cũng chính từ đó nghiệp duyên cứ đeo đuổi và gây khá nhiều sự phiền toái cho thiền sư về sau này.

Sử truyện kể lại rằng, thiền sư là người rất hảo tướng, oai nghiêm, đỉnh đạc, thông minh, có tài hùng biện và thuyết giảng Phật pháp rất hay nên được đông đảo quần chúngPhật tử mến mộ tài năng và phẩm hạnh của Người. Tiếng lành của thiền sư đã chinh phục khá đông đảo Phật tử trong nội cung và các quần thần của triều Nguyễn lúc bấy giờ. Thiền sư có rất nhiều đệ tử trong hoàng cung, trong số đệ tử đó có một vị Hoàng cô (cô của vua Minh Mạng) cũng quy y và thọ Bồ-tát giới, pháp danh Tế Minh, tự Thiên Nhựt. Do cảm mến và quá hâm mộ tài năng cũng như đức độ của Thiền sư nên đã có ý định ràng buộc duyên trần cùng với người. Do thiền sư luôn tỉnh giác và là người có trí tuệ nên đã chọn phương pháp “tránh duyên” bằng cách xin về trụ trì chùa Từ Ân ở Gia Định. Lúc này thiền sư Phật Ý Linh Nhạc (1725- 1821), trụ trì Sắc Tứ Từ Ân tự đã viên tịch

Thế rồi vào một buổi sáng đẹp trời tháng mười, năm Quý Mùi (1823), thiền sư đang uống trà và đàm đạo cùng với đồ chúng chùa Sắc Tứ Từ Ân, bỗng có tin từ quan trấn thủ Gia Định vào cho hay là Hoàng cô vâng lệnh vua (Minh Mạng) vào Gia Định để cúng dường chùa Sắc Tứ Từ Ân và chùa Quốc Ân Khải Tường . (Trước đây chùa có tên Khải Tường, trong thời gian (1789- 1802) Nguyễn Phước Ánh trung hưng ở Gia Định, Nguyễn Vương và triều thần ngụ tại chùa Từ Ân; các vương phi, công chúa… ngụ tại chùa Khải Tường. Năm 1791, hoàng tử Nguyễn Phúc Đảm - sau này là vua Minh Mạng- đã chào đời tại ngôi chùa này. Sau khi lên ngôi, vua Gia Long đã sắc phong là Quốc Ân Khải Tường tự). Nhận được tin này, thiền sư phần nào cũng lo âu, bởi lẽ “chúng sanh” bản tánh cang cường khó thay đổi (Hoàng cô) không biết chuyện gì sẽ xảy ra. Mặc dù, thiền sư đã biết mình uyên thâm Phật pháp. Nhưng đang sống trong một xã hội quân chủ, quyền sinh sát nằm trong tay một người, đó là thiên tử, cháu của “chúng sanh” cang cường này.

Thiền sư đích thân cầu thỉnh, vấn kế thiền sư Tổ Tông Viên Quang (1758-1827), trụ trì chùa Giác Lâm, Phú Thọ. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang khuyên can và bảo rằng: nếu Hòa thượng lánh mặt bất ngờ thì sẽ mang tội với triều đình, làm cho chư Tăng cùng Phật tử xôn xao, nghi ngờ thắc mắc… sẽ gây nhiều dư luận không tốt và có thể gây nhiều biến động rắc rối hơn. Thiền sư Tổ Tông Viên Quang khuyên Hòa thượng hãy định tâm, cố gắng giữ cho tâm được bình thản và sinh hoạt tự nhiên như mọi ngày, cầu nguyện chư Phật hộ trì, giúp cho sáng suốt để giải quyết công việc hợp tình và hợp lý.

Thiền sư Liên hoa về chùa chuẩn bị đón tiếp Hoàng cô. Lễ tiếp đóncúng dường diễn ra tốt đẹpviên mãn. Hoàng cô ở lại chùa Sắc Tứ Từ Ân, mỗi sáng thiền sư Liên Hoa phải tiếp kiến và hầu chuyện bình thường. Nhưng đến sáng thứ ba không biết có sự việc đặc biệt khác thường gì không, mà đến sáng sớm ngày ấy Hoàng cô ở chùa, mà không thấy thiền sư đến tiếp kiến như mọi hôm. Hỏi Tăng chúng thì không ai hay biết, chỉ có Sa di Mật Dĩnh là thị giả của thiền sư biết nhưng không dám hé môi.

Do tâm bịnh nên sức khỏe Hoàng cô ngày một sa sút trầm trọng. Sợ nguy hại cho bổn tự nên Sa di Mật Dĩnh đành phải nói sự thật. Thiền sư đã lên chùa Đại GiácCù lao Phố, tỉnh Biên Hòa để nhập thất hai năm. Được tin này, Hoàng cô thông báo với quan trấn Gia Định là mình lên chùa Đại Giác để cúng dường. Quan tổng trấn cử phái đoàn hộ tống Hoàng cô lên chùa Đại Giác. Sau khi đến chùa dâng lễ cúng dường và nhờ thị giả Mật Dĩnh đưa đến tịnh thất của thiền sư Liên Hoa. Hoàng cô với tâm thành kính đảnh lễ trước tịnh thất và xin gặp mặt thiền sư lần cuối trước khi hồi kinh. Thiền sư không trả lời. Hoàng cô suy nghĩ kế khác, sau đó quỳ trước cửa thất thưa rằng: “ nếu Hoà thượng không tiện ra tiếp, xin Hoà thuợng cho con nhìn thấy bàn tay của Hòa thượng, đệ tử cũng hân hoan mà ra về”. Im lặng vài phút thiền sư đưa bàn tay ra cửa nhỏ nơi đưa thức ăn vào thất, Hoàng cô vội ôm bàn tay hôn một cách trìu mến, rồi sụp lạy xuống và khóc sướt mướt. Nhưng sau đó bà cho biết là ở lại chùa Đại Giác nghỉ ngơi vài ngày trước khi hồi kinh.

Đêm hôm ấy, vào khoảng canh ba, trong khi mọi người đang yên giấc, bỗng thấy tịnh thất của thiền sư phát hỏa, mọi người chạy ra dập lửa thì tịnh thất đã cháy rụi. Nhục thân của thiền sư cũng cháy đen. Mọi người đang bàn tán, xôn xao, có người phát hiện bài kệ của thiền sư viết bằng mực đen trên vách chánh điện:

THIỆT đức rèn kinh vẹn kiếp trần
THÀNH không vẩn đục vẫn trong ngần
LIỄU tri mộng huyễn chơn như huyễn
ĐẠT đạo mình vui đạo mấy lần.

Qua bài kệ trên chúng ta thấy rằng, thiền sư Liên Hoa là người rất uyên thâm Phật pháp, biết cuộc đời này là mộng huyễn ảo ảnh. Người đã dùng ngọn lửa để thức tỉnhgiáo hóa Hoàng cô. Nhưng có lẽ do duyên nghiệp nhiều đời nhiều kiếp giữa hai người, nên ngọn lửa ấy đã không đạt được kết quả như mong muốn. Tuy nhiên qua câu chuyện này, hàng hậu côn chúng ta cũng rút ra được bài học vô cùng quý báu. Một người vừa hảo tướng vừa tài năng đôi khi cũng dễ gặp những chướng duyên trên bước đường tu học. Điều này đã được báo trước và người nhận ra mối nguy hại ban đầu cũng như tiên đoán chính xác sự việc đó là thiền sư Phật Ý - Linh Nhạc. Ngài tiên đoán “ sư Liễu Đạt (Thiệt Thành, hiệu Liên Hoa) không tránh khỏi mối dây ràng buộc của nghiệp trần duyên vì thiền sư Liễu Đạttướng hảo, có tài thuyết giảng và khoa ăn nói, lại giảng giải trong nội cung, gần nhiều giới nữ sắc quyền quý”. Và điều đó đã ứng nghiệm như thật qua câu chuyện. Các vị thiền sư xưa kia, bằng công phu tu tập, năng lực thiền định đã nhận ra tương lai của một người nào đó đối diện với mình, phần còn lại chỉ do họ có nỗ lực để chuyển hóagiải quyết sự việc đó đúng theo tinh thần nhân quả của nhiều đời, nhiều kiếp hay không?

Cuộc đờisự nghiệp của một vị thiền sư tài năng, đạo hạnh nổi danh một thời như thế, nhưng phải nhờ ngọn lửa để giữ gìn giới thân huệ mạng là điều chúng ta ngày nay phải cần suy ngẫm. Có một vài người cho rằng cách giải quyết vấn đề như thế là tiêu cực, không lối thoát, chưa trọn vẹn với tinh thần chánh pháp… Phải chăng những nhận xét như vậy là quá gay gắt với tiền nhân?! Người viết cho rằng, khi mình đã là “thần tượng” của quần chúng Phật tử, nhất là thần tượng của giới trí thức quan lại triều đình thì việc “tự thiêu” không chỉ bảo tồn giới thân huệ mạng cho riêng mình mà còn là việc bảo vệ danh dự cho hàng vạn Tăng lữ và hàng triệu tín đồ đã một thời kính trọng và ngưỡng mộ tài đức của mình. Việc làm ấy cũng đủ để hậu thế đảnh lễ tán thán và noi gương theo công hạnh của Người.

Thời đức Phật còn tại thế, Ngài đã thuyết tam bất năng (bất năng miễn định nghiệp, bất năng độ vô duyên, bất năng tận sanh giới). Chính vì tam bất năng này mà hàng hậu học hôm nay hiểu được vì sao thiền sư Liên Hoa đã dùng ngọn lủa “thiêu thân” để bảo toàn phẩm hạnh của mình. 

Trước phong ba bão táp mọi vật có thể bị hủy diệt và cuốn trôi theo chiều gió, chỉ hương người đức hạnh mới trụ lại được và bay ngược lại chiều gió mà thôi. Hương của hoa sen thoang thoảng đâu đây, hình ảnh thiền sư Liên Hoa lại hiện về trong tâm trí của những người đang đi trên lộ trình giải thoát. Chấp tay búp sen con nhớ lại hình ảnh Ngài, cúi đầu đảnh lễ cành hoa sen trước gió.☸

Nguồn: Tập San Pháp Luân 18


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 769)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1093)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1265)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 993)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1332)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 752)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 935)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 820)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 977)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1001)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 944)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 982)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 946)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1136)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1153)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1259)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1364)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1462)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1343)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1196)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1295)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant