Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hết Đường Đi Là Đến Điểm Tới - Diệu Trân

17 Tháng Chín 201000:00(Xem: 7980)
Hết Đường Đi Là Đến Điểm Tới - Diệu Trân


HẾT ĐƯỜNG ĐI LÀ ĐẾN ĐIỂM TỚI

Diệu Trân
=================================


Xe đang chạy trên xa lộ 22, về hướng Đông. Xe gồm năm người: băng trước là hai mẹ con bà chủ xe mà cậu con trai đang làm tài xế; băng sau là ba người khách quá giang là tôi và hai người bạn đạo. Trong số ba người quá giang này, tôi lại còn thuộc loại “quá giang bậc nhì”, nghĩa là các bạn đạo của tôi quen biết trực tiếp với chủ xe nên họ cho quá giang. Còn tôi, được bạn đạo của tôi nói với chủ xe cho tôi được .... quá giang bạn tôi!

Chỉ mới phân định vị trí mà đã lê thê hết mấy dòng. Phàm những gì phải giải thích loanh quanh, tự thân nó đã có mầm phân biệt, có phân biệt là có đối đãi, có đối đãi là có suy tưởng, có suy tưởng là trồi lên biết bao ranh giới ta-người, có-không, đẹp-xấu, thiện-ác ...... Bất an, phiền não từ đó bủa vây.

Ấy thế mà tôi lại bắt đầu chuyến đi tới miền thanh tịnh bằng những khởi niệm quẩn quanh bất tịnh. Có lẽ tôi chỉ muốn giãi bầy rằng tôi được các bạn đạo tình cờ gọi đi vào đúng lúc các bạn tôi không ngờ rằng tôi đang rất cần đi. Đi đâu ? Ồi, đi bất cứ đâu ! Đi, như một hành động yếm thế nhất để đối trị sự phiền não. Tôi đã ngồi thiền, đã quán chiếu, đã chấp nhận phiền não như một phần thân thể mình. Phải trực diện phiền não, phải ôm lấy phiền não, phải tử tế với phiền não như người mẹ đã ôm và tử tế với đứa con quấy khóc vì cơn sốt bệnh. Rồi đứa con sẽ giảm nhiệt độ, sẽ ngủ ngoan, và khi thức dậy, nó sẽ lại chạy chơi đây đó. Cùng với sự khỏe mạnh của đứa con, người mẹ sẽ tìm lại được an vui, vì khổ đau, lo lắng không còn nữa.

Ôi, tôi đã tuân theo bài học, tập ôm đứa-con-phiền-não, đã cố gắng hát nhiều bài ru, bài thì cương thường quyết liệt, bài thì nỉ non dỗ dành, bài thì van nài bi lụy, nhưng đứa-con-phiền-não như không thấy, không nghe. Nó quấy phá nhiều hơn, ác độc nhiều hơn, tàn nhẫn nhiều hơn ..... 

Tôi đang khởi tâm nghi ngờ sự quán chiếu và cách đối trị, thì bạn đạo gọi: “Đi thăm Làng Di Đà không?”

Làng gì cũng đi, nói chi Làng Di Đà!!! 

“Tùng thị Tây Phương, quá thập vạn ức Phật độ, hữu thế giới danh viết Cực Lạc, kỳ độ hữu Phật, hiệu A-Di-Đà, kim hiện tại thuyết pháp”

Tại Pháp-hội Liên-Trì, khi Đức Phật nói với trưởng lão Xá Lợi Phất rằng: “Từ đây qua Phương Tây, quá mười muôn ức thế giới Chư Phật có một thế giới tên là Cực Lạc. Thế giới đó có Đức Phật hiệu A-Di-Đà hiện nay đang thuyết pháp”.

Khi Đức Phật nói câu này là Ngài đang ngồi tại tu viện vườn Cấp Cô Độc thuộc thành Xá Vệ nên phương Tây là nhìn từ phía đó. Nếu hiểu phương hướng theo tinh thần “bản đồ” thì chúng ta đang ở những phương trời khác nhau như Âu, Á, Nhật Bản, Trung Hoa, Hoa Kỳ, Việt Nam v... v... mà cùng muốn tới Tây Phương Cực Lạc để gặp Phật A Di Đà thì chắc chắn không phải là chúng ta cùng nhắm hướng Tây mà đi tới ! Nhất là, khi học kinh A Di Đà và hiểu chút ít về pháp môn Tịnh Độ thì Cực Lạc ngay nơi tâm ta, tâm thanh tịnhcảnh giới Cực Lạc, bước được những bước chân vững chãi, an lạc thì Tịnh Độ ngay dưới bước chân ta, nào phải nhắm hướng Tây, vượt muôn ức thế giới Chư Phật mới tới được Cực Lạc. Mà cho dù có nhắm mắt nhắm mũi vượt được “muôn ức thế giới Chư Phật” chăng nữa nhưng gồng gánh theo đủ ngũ trược như tôi đây thì phương Tây nào đó cũng đâu phải là Cực Lạc!!!

Tôi vẫn đang dài dòng, đủ biết rằng cái gánh phiền não vẫn còn trĩu nặng trên vai. Chúng tôi đang trên xa lộ 57, hướng Đông Bắc. 

Tôi trừng mắt nhìn phiền-não và dọa thầm: “Mi không theo ta lâu hơn nữa được đâu, vì ta đang trên đường tới Cực Lạc, đất nước của Phật A Di Đà”. Và để chứng minh lời dọa dẫm cho thêm hiệu lực, tôi đọc cho phiền-não nghe đoạn kinh: 

“Xá Lợi Phất, bỉ độ hà cố danh vi Cực Lạc? Kỳ quốc chúng sanh, vô hữu chúng khổ, đản thọ chư lạc, cố danh Cực Lac” Này Xá Lợi Phất, thế giới đó vì sao có tên là Cực Lạc? Vì dân chúng nước đó không có những sự khổ, chỉ hưởng những điều vui nên thế giới đó tên là Cực Lạc.

Đọc xong đoạn kinh này, tôi khởi ngay niệm ngạo mạn với phiền-não. A, rồi mi sẽ biết, ta sẽ quăng mi ra như quăng những con đỉa bám vào ống chân người đi rừng. Ta sẽ quăng mi dễ dàng. Vì sao ư? Vì mi theo ta là làm ta đau khổ, nhưng ta đang tới nước Cực Lạc, nơi không có sự khổ, chỉ toàn những điều vui. Mi là sự khổ, làm sao theo ta tới Cực Lạc được!

Người bạn đạo nhìn tôi, khẽ nói:

- Suy tư gì mà im lặng thế? Nhìn kìa, trước núi non hùng vĩ, sa mạc mênh mông mới thấy thân phận con người bé nhỏ nhường bao! Ấy, đã bé nhỏ còn vô thường nữa mà cứ vô minh không nhận ra.

Tôi giật mình, tưởng như bạn mình có tha-tâm-thông, vừa đọc được hết những quẩn quanh của mình. Nhưng không, bạn tưởng tôi im lặng vì mệt nên nói tiếp:

- Nhắm mắt một lúc đi, lấy sức tới làng mà leo đồi, lội suối.

Tôi bật cười:

- Sao lại leo đồi, lội suối?

Bạn ngay thật, không biết tôi trêu ghẹo nên giải thích:

- Làng mới thành lập, còn hoang sơ lắm mà, mấy ngọn đồi mênh mông sỏi đá khô cằn. Hôm nay có một nhóm lên trồng cây, nhóm khác thì làm cỏ, khai quang, cùng phát tâm cúng dường công quả

Tôi lại cố tình ngây thơ:

- Vậy ư? tưởng rằng “Cực Lạc quốc độ, hữu thất bảo trì, bát công đức thủy, sung mãn kỳ trung, trì để thuần dĩ, kim sa bố địa. Tứ biên giai đạo, kim ngân, lưu ly, pha lê hiệp thành” chứ!

Tới đây thì bạn biết là tôi trêu ghẹo. Bạn thật là từ bi, đã không giận mà còn ân cần:

- Đúng thế đó, trong nước Cực Lạc có ao bằng bẩy chất báu, chứa nước đầy đủ tám công đức, đáy ao thuần dùng cát vàng trải làm đất, đường viền quanh bốn bên ao thì rát bằng vàng bạc lưu ly, pha lê. Đó chẳng phải là cảnh giới đẹp đẽ trong tâm người tu Tịnh Độ ư? 

Tôi ân hận, cảm thấy không xứng đáng chút nào khi đùa cợt như vậy. Lạ thay, chỉ một chút ân hận thôi, lòng tôi đã nhẹ, gánh phiền não đã vơi. Tôi biết chứ, biết rằng xả mười niệm phiền não là tăng một niệm Bồ-đề, nhưng đường tu nhiều thử thách nên xen giữa bao phấn đấu vẫn thỉnh thoảng quỵ ngã vì lụy phiền. Tôi nào quên trong kinh Duy Ma Cật đã dạy “Phiền não là hạt giống Như Lai”. Không có phiền não, làm sao ta biết được giá trị của thanh tịnh, cũng như không có khổ đau làm sao biết hạnh phúc là gì.

Lòng đã vơi nức nở khi xe đổi qua xa lộ 10, về hướng Đông. Tôi nhìn cảnh trí bên đường, thấy núi như xanh hơn, nắng như vàng hơn, vũ trụ mênh mông hơn và Cái Ta nhỏ lại hơn. Cái Ta đã nhỏ thì những cái đang bám víu quanh ta có hành hạ nổi ta nữa hay không? Này phiền-não, ta đang nhìn mi, đang nhận diện mi. Mi là mi, ta là ta. Từ vô thỉ, mi không ngừng rình rập, chờ từng sơ hở để tấn công ta, hủy diệt ta hòng đồng hóa mi với ta. 

Này, hỡi con-ma-phiền-não, ta với mi là hai biệt thể. Mi chỉ có thể đứng chung với ngũ trược ác thế, nơi “ Thích Ca Mâu Ni Phật, năng vi thậm nan, hy hữu chi sự, năng ư Ta-Bà quốc độ, ngũ trược ác thế: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược, mạng trược trung, đắc A-Nậu-đa-la-tam-miệu-tam-bồ-đề, vị chư chúng sanh, thuyết thị nhất thiết thế gian, nan tín chi pháp” Đó, rất rõ ràng, Đức Thích Ca Mâu Ni không phải là thần thánh, Ngài là người phàm như muôn chúng sanh nhưng siêu phàm ở chỗ, ngay giữa cõi Ta-bà ngập đầy 5 yếu tố ô nhiễm mà Ngài không chỉ chứng đắc được quả vị giác ngộ vô thượng mà còn đem pháp môn rất khó tin để thuyết giảng cho những ai chưa tin, phát khởi được niềm tin. Tin gì? Tin rằng chỉ cần một lòng niệm hồng danh Đức Phật A Di Đà, nhất tâm bất loạn thì tâm sẽ thanh tịnh. Tâm thanh tịnh có nghĩa là ngũ trược bị đẩy lui. Tâm thanh tịnh thì sẽ giao cảm được với Chư Phật.

Chúng tôi đang trên xa lộ 15, nhắm hướng Bắc, qua biết bao nhiêu thành phố mới rẽ vào con đường mang tên Big Bear Valley Road. Người và cảnh như dịu dàng hơn, thân ái hơn. Hai bên đường, nhà cửa thưa thớt dọc theo chân núi, thỉnh thoảng lại hiện ra những tảng đá lớn nhỏ đủ cỡ, chồng lên nhau rất mỹ thuật như có bàn tay ai sắp xếp. Nhưng tay ai mà sắp xếp được sự hoành tráng tuyệt vời kia? 

Bỗng nhiên, tôi nhìn núi không là núi, đá không là đá nữa, mà đá đó, núi kia như “Thất trùng lan thuẫn, thất trùng la võng, thất trùng hàng thọ, giai thị tứ bảo, châu tráp vi nhiễu”, thảy đều mang vẻ đẹp của Cực Lạc quốc độ với “bảy từng bao lơn, bảy từng màng lưới, bảy từng hàng cây đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng”

Xe vẫn chạy, chạy mãi .... Núi và mây như cùng đi. Ôm lấy chúng tôi là mây và núi, núi và mây. Vai tôi nhẹ hẫng. Cái gánh phiền-não đâu rồi? Chân trời như mở rộng ra, mênh mông, đằng trước, đằng sau, bên phải, bên trái không thấy đâu là ranh giới; Và trên cao, ồ, trên cao vô tận kia như đang tỏa xuống bát ngát hương mạn-đà-la trong âm thanh huyền diệu. Có phải dân chúng trong nước Cực Lạc đang hái hoa cúng dường Chư Phật “Bỉ Phật quốc độ thường tác thiên nhạc, huỳnh kim vi địa, trú dạ lục thời, vũ thiên mạn-đà-la hoa, kỳ độ chúng sanh, thường dĩ thanh đáng, các dĩ y kích, thạnh chúng diệu hoa, cúng dường tha phương thập vạn ức Phật”

Xe chạy mãi, chạy tới mức con đường Big Bear Valley Road mệt quá, nó bèn đổi thành Highway CA-18 (Tội nghiệp, nó tưởng đổi tên là giao cho thằng CA-18 chạy tiếp sức, có biết đâu thay tên chỉ như thay áo!)

Trên CA-18, xe băng qua những cánh đồng hoang vu, có lẽ vừa xong mùa gặt hái hoa mầu. Lại thấy núi, thấy mây nhưng rải rác đã có nhà cửa, hàng quán. Và kìa, xe vừa rẽ phải, vào một con đường đất gồ ghề, mấp mô. Những hòn sỏi nhỏ liên tục va vào hai bên thành xe, loạt xoạt như âm thanh vỡ vụn của miếng bánh đa ròn tan. Con đường đất càng nhỏ dần, càng mấp mô thêm. Ô kìa, sắp đến chân núi rồi, không thấy con đường nào nữa! Làng ở đâu? Trong núi ư? 

Xe vẫn chạy. Chạy nữa. Chắc chắn là không thấy con đường nào trước mắt nữa cả! Vậy làng ở trong núi thật rồi. Nhưng không, dù làng có ở trong núi cũng phải có đường vào núi chứ? Núi kín mít thế kia, làng đâu??? Xe chạy chậm hơn ..... chậm hơn ..... chậm .... và chậm nữa ..... tới sát chân núi rồi. Hết đường đi. Một tấm bảng hết sức đơn sơ bên phải, ai đó đã nắn nót viết: “LÀNG DI ĐÀ”.

Chúng tôi xuống xe. Mọi người lục tục theo nhau vào làng. Tôi còn đứng đó, đứng như chôn chân bên cổng làng.

Sửng sốt

Bàng hoàng.

Cõi lòng u uẩn, trĩu nặng ưu phiền bỗng bừng sáng khi chợt nhận ra “HẾT ĐƯỜNG ĐI, LÀ ĐIỂM TỚI”.

Ôi, mầu nhiệm thay, đơn giản có thế thôi “hết đường đi, là điểm tới” Xả phiền nãothanh tịnh. Đèn bật lên, bóng tối tất lui. 

“Đem cái tâm bất an ra đây, ta an cho. Thưa, tâm bất an con tìm không thấy, lấy không ra” Đó là khi ngài Huệ Khả kẹt nơi pháp chấp văn tự mà ngỡ là mình có cái tâm bất an. Tiếng quát đúng thời, đủ duyên của Tổ đã đưa Huệ Khả ra khỏi lưới kẹt. Hết kẹt là tâm an, còn tìm đâu ra tâm bất an mà trình Tổ Đạt Ma nữa!

Chúng sanh sơ cơ, mãi quẩn quanh trên đường phiền não như tôi thì đi mười đại kiếp cũng không thấy điểm tới!

Ôi, bài học vi diệu mà tôi vừa bất ngờ nhận được. “Hết đường đi” còn có nghĩa là “dừng lại”. Chỉ cần dừng lại tâm ô nhiễm thì điểm tới thanh tịnh hiển bày, dừng tâm sân si thì Cực Lạc quốc độ ngay dưới bước chân ta. Hãy quán một điều tương đối dễ: “Cái thân tứ đại ta ngỡ là quan trọng nhất mà còn vô thường, thì những gì xoay quanh thân đó còn mong manh tới đâu! Ta chịu sự khổ đau phiền não vì còn muốn bám víu vào những cái mong manh, vô thường đó ư?” 

Tôi đứng đó, với tâm không lay động, lắng sâu và thinh lặng như 1250 vị khất-sỹ đang nghe lời Đức Thích Ca Mâu Ni truyền dạy trong Hội Liên Trì: “Nhữ đẳng chúng sanh đương tín thị, xưng tán bất khả tư nghì công đức nhất thiết Chư Phật sở hộ niệm kinh”.

Nam Mô Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Nam Mô A Di Đà Phật

Diệu Trân
(Mùa Sen 2006)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 23)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 137)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 163)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 176)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 180)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 196)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 240)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 227)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 236)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 230)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 270)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 261)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 213)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 160)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 189)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 217)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 301)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 376)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 388)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 361)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 349)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 367)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 627)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 582)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 856)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 451)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 688)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 506)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 490)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 391)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 511)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 477)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 669)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 460)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 859)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 584)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 580)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 980)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 687)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 578)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 880)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 551)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 679)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 653)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 630)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 642)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 642)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 538)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 710)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1024)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant