Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Trong cơn nguy khốn biết tình bạn thân

14 Tháng Mười Hai 201000:00(Xem: 14365)
Trong cơn nguy khốn biết tình bạn thân


Câu chuyện này, trong khi trú tại tinh xá Trúc Lâm (Veḷuvana), đức Thế Tôn kể về Đề-bà-đạt-đa. Khi nghe Đề-bà-đạt-đa đang mưu tính giết hại mình, đức Thế Tôn nói:

– Này các Tỳ-kheo, chính điều này đời trước đã từng xảy ra. Thuở đó, Đề-bà-đạt-đa đã cố giết ta giống như đang cố làm bây giờ vậy.

Rồi Ngài kể cho họ câu chuyện này

Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng. Cách hồ ấy không xa, có con chim Gõ Kiến xây tổ trên chóp ngọn cây. Còn trong hồ, có một con Rùa sinh sống. Ba sinh vật này kết bạn và sống với nhau trong tình thân hữu.

Một gã thợ săn lùng sục khắp trong rừng và nhìn thấy dấu chân của Bồ-tát đi xuống hồ nước. Gã ta bèn đặt ở đấy một cái bẫy dây da cứng chắc giống như một sợi dây xích sắt rồi ra về. Vào canh một, Bồ-tát đi xuống uống nước và bị mắc bẫy, vội kêu lên cầu cứu. Ngay sau đó, chim Gõ Kiến ở trên ngọn cây bay xuống, Rùa từ dưới nước bò lên, cả hai cùng bàn bạc tìm cách cứu Linh Dương.

Gõ Kiến nói với Rùa:

– Bạn Rùa, bạn có răng, bạn hãy cắn đứt cái bẫy này ra. Còn tôi sẽ đi đến chỗ ở của gã thợ săn, tìm cách ngăn cản không để gã đến đây. Nếu cả hai chúng ta cố gắng, người bạn của chúng ta sẽ không bị mất mạng.

Để làm rõ nghĩa này, Gõ Kiến đọc lên bài kệ:

Rùa hỡi, hãy xé cái bẫy da
Và cắn cho nó đứt rời ra
Còn tôi canh chừng gã săn thú
Giữ gã cách rời bạn thật xa.

Rùa bắt đầu gặm sợi dây da. Còn Gõ Kiến bay đến chỗ ở của gã thợ săn. Vào lúc rạng đông, gã thợ săn cầm lấy con dao và ra đi. Khi nhìn thấy gã rời cửa trước, Gõ Kiến đập cánh kêu lên và đá vào mặt gã. “Một con chim điềm xấu đá ta!” Gã thợ săn suy nghĩquay trở lại, nằm xuống đợi một lát. Sau đó, gã lại đứng dậy và cầm lấy con dao. Chim suy luận: “Lần đầu gã đi ra bằng cửa trước, vì thế lần này gã sẽ rời bằng cửa sau,” và chim nhìn thấy gã ngồi ở sau nhà. Gã thợ săn cũng suy luận như thế: “Khi ta đi ra bằng cửa trước, ta gặp phải một điềm xấu, nên bây giờ ta sẽ đi ra bằng cửa sau!” Và gã đã làm như vậy. Nhưng khi gã thợ săn vừa rời cửa sau để ra đi, Gõ Kiến lại kêu lên và đá vào mặt gã. Thấy một con chim điềm xấu lại đá mình, gã thợ săn nghĩ, “chắc con vật này không muốn cho ta đi!” nên quay trở lại và nằm xuống cho đến khi mặt trời mọc. Đến khi mặt trời đã lên cao, gã cầm lấy con dao và bắt đầu lên đường.

Gõ Kiến bay nhanh trở lại chỗ những người bạn của mình, kêu lên:

- Gã thợ săn đang đến đấy!

Lúc này, Rùa đã cắn đứt gần hết những sợi dây da, chỉ còn lại một sợi dây chắc. Răng của Rùa dường như muốn rụng ra ngoài, còn miệng thì bê bết máu. Bồ-tát nhìn thấy gã thợ săn tay cầm con dao đang lao đến như chớp, liền giật phăng sợi dây và biến mất vào rừng. Gõ Kiến thì bay lên đậu trên đầu ngọn cây. Còn Rùa vì quá yếu, đành phải nằm lại đó. Gã thợ săn thấy Rùa liền bắt lấy và ném vào trong một cái túi rồi buộc nó vào một nhành cây.

Bồ-tát thấy Rùa bị bắt, bèn quyết định cứu mạng người bạn của mình. Vì thế, giả vờ như yếu lắm, Linh Dương để cho gã thợ săn nhìn thấy mình. Gã thợ săn nhìn thấy và nghĩ rằng Linh Dương yếu thật, nên cầm lấy dao đuổi bắt. Bồ-tát giữ gã cách xa đúng tầm tay, dụ đưa gã vào rừng. Và khi thấy đi đã xa, Linh Dương vội tẩu thoát khỏi gã và như một cơn gió, đã quay nhanh trở lại hồ nước bằng một con đường khác. Linh Dương dùng sừng nhắc cái túi lên, ném nó xuống đất, xé toạc ra và cứu lấy Rùa. Từ trên cây, chim Gõ Kiến cũng bay xuống.

Thế rồi Bồ-tát nói với hai bạn thế này:

– Hai bạn đã cứu mạng tôi, đã thể hiện một tình bạn chân thành đối với tôi. Bây giờ gã thợ săn sắp quay trở lại để bắt các bạn. Các bạn hãy làm theo lời tôi: bạn Gõ Kiến, bạn hãy đi dời tổ của mình đến một chỗ khác. Còn bạn Rùa, bạn hãy lặn sâu vào trong nước đi.

Chúng đã làm theo như vậy.

Rùa lặn vào hồ nước
Linh dương vào rừng già
Từ trên cây Gõ Kiến
Dời tổ mình đi xa.

Gã thợ săn quay trở lại và không còn thấy một ai cả. Nhìn thấy cái túi của mình đã bị xé toạc, gã nhặt nó lên và buồn bã trở về nhà. Từ đó, ba người bạn này sống trọn đời trong tình thân hữu không gì phá vỡ, rồi sau khi mạng chung, đã tái sanh tùy theo hành nghiệp của mình.

Khi kết thúc pháp ngữ này, đức Thế Tôn nhận diện tiền thân:

– Vào thuở đó, Đề-bà-đạt-đa là gã thợ săn, Xá-lợi-phất là chim Gõ Kiến, Mục-kiền-liên là con Rùa, còn Ta là Linh Dương.

Lời bình:

Đề-bà-đạt-đa là anh trai của Tôn giả A-nan, là đệ tử của đức Phật. Ông là người rất thông tuệ, nhưng do lòng tham cầu lợi dưỡng và đam mê danh vọng nên đã có những việc làm sai trái, độc ác đối với đức PhậtTăng chúng.

Theo đức Phật, những việc làm của Đề-bà-đạt-đa đối với Ngài không phải chỉ xảy ra trong đời hiện tại, mà còn xảy ra nhiều đời trong quá khứ, Đề-bà-đạt-đa cũng đã từng có những hành vi như vậy. Trong Tiểu Bộ kinh, phần chuyện Tiền thân, đức Phật đã kể lại nhiều câu chuyện đời quá khứliên quan đến những hành vi bất thiện của Đề-bà-đạt-đa. Câu chuyện này là một trong số những câu chuyện đó.

Vào một đời quá khứ, khi đức Phật thọ sanh làm một chú Linh Dương, thì Đề-bà-đạt-đa là một gã thợ săn. Gã thợ săn đặt bẫy để bắt Linh Dương. Linh Dương mắc bẫy, kêu cứu, và được hai người bạn của mình là Rùa và Gõ Kiến đến cứu giúp. Bằng lòng can đảmtrí thông minh, chúng đã cứu Linh Dương thoát khỏi nguy nạn. Rồi đến khi Rùa bị bắt, Linh Dương cũng lại dùng kế để cứu lấy Rùa. Cuối cùng cả ba thoát khỏi tai nạn, về sau tình bạn của họ càng trở nên thắm thiết hơn.

Cũng như những câu chuyện Tiền thân khác, đức Phật kể câu chuyện này nhằm minh chứng rằng giữa đời sống hiện tạiđời sống quá khứ luôn có những sự nối kết với nhau, luân hồi tái sinh là một định luật tất yếu đối với con người và muôn vật. Nhưng ở câu chuyện này ngoài việc dùng nó để chứng minh cho học thuyết nhiều đời sống ra, chúng ta có thể tìm thấy ở đây một giá trị giáo dục rất cao. Câu chuyện đã đưa ra một mối quan hệ tình bạn thật đẹp, những người bạn đã biết cứu giúp nhau trong lúc hoạn nạn. Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta thấy có những tình bạn chỉ thực sự tồn tại trong những lúc bình yên, còn khi gặp hoạn nạn lại bỏ rơi nhau, thậm chí có người còn đổ tội cho bạn để tìm lấy sự an ổn cho riêng mình. Hy sinh vì bạn, tìm cách cứu giúp bạn trong cơn nguy khốn là việc làm cao cả, biểu lộ một tình bạn chân thật. Ngạn ngữ Tây phương nói: “Ta biết ai là bạn chân thực không phải lúc ở nơi bàn ăn, mà lúc ở trong chốn lao tù”. Câu nói này ngẫm nghĩ thấy thật chí lý.

Lúc còn nhỏ, tôi đã có đọc một câu chuyện thế này: Có hai người bạn nhỏ rủ nhau vào rừng chơi. Đang lang thang, họ bất ngờ nhìn thấy một con gấu đen to lớn đi đến. Một người bạn, vì quá sợ hãi nên đã bỏ rơi bạn mình và chạy leo lên cây. Người bạn còn lại, trong lúc nguy khốn không biết phải làm thế nào nên giả vờ nín thở nằm chết, vì biết rằng loài gấu sẽ không bao giờ ăn thịt những sinh vật khi đã chết. Con gấu đi đến, ngửi vào đầu cậu bé, thấy đã tắt thở nên bèn bỏ đi. Khi gấu đi rồi, cậu bé trên cây tụt xuống, đến chỗ người bạn của mình và hỏi: Gấu nói gì với cậu thế? Cậu bé này trả lời: À, gấu bảo rằng ai bỏ rơi bạn trong lúc hoạn nạn là người không tốt!

* Tiền thân Kurunga-Miga, số 206, bản Anh ngữ.

Nguồn: Tập san Pháp luân số 06


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 766)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1088)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1263)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 991)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1330)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 781)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 749)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 801)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 818)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 932)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 820)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 976)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 988)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1001)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 943)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 979)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 893)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 945)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 872)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 999)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1133)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1152)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 960)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1349)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1257)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1363)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1462)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1343)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1196)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1295)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant