Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyện Giày Chuyện Dép

01 Tháng Tám 201405:59(Xem: 12651)
Chuyện Giày Chuyện Dép

Chuyện Giày Chuyện Dép


Tản mạn nhân kỷ niệm 30 năm Bảo Quang Hamburg.


Nguyên Đạo

Bạn bè tôi thường hay đùa nhau nói: giày dép còn có số huống chi con người ta. Tôi biết, đó là bạn bè đùa vui thôi! Cuộc đời tôi thì có gắn bó nhiều với những câu chuyện về giày dép. Có bạn còn nói: cái mũ người ta đội trên đầu mới đáng nói hơn, nói chi lòng vòng mấy cái chuyện giày chuyện dép, chỉ là món đồ dùng người ta mượn để đạp dưới đất mà đi. Thì cũng có sao đâu! Cái mũ đội trên đầu thấy "cao thượng" nhưng lúc lỡ quên mang theo thì mình có thể chui vào đâu đó tránh nắng hay dùng khăn chùm đầu cũng đỡ lạnh. Nhưng giày dép mà vắng mặt thì… bạn ơi, có hơi chật vật đấy! Sỏi đá, gai góc vào chân thì chỉ có khóc thôi. Phải vậy không? Ai từng gặp cảnh ấy mới biết. Bởi nghĩ thế nên mấy cái chuyện giày chuyện dép ấy nócứ đeo đuổi theo tôi nhiều năm, đến hôm nay mới có dịp kể ra đây.

[Một]

Chuyện ông già quảy chiếc dép

Lúc nhỏ, khoảng chín mười tuổi gì đó, chỉ mới vừa thấy ông lần đầu là tôi đã mê ngay, mê cái hình cụ ông ấy.Cụ ông dáng người quắc thước, đẹp lão, râu hùm, hàm én, mắt lòe kỳ quang, thân khoác cà sa. Thọat nhìn thì tưởng như ông già trong tượng Ngư Ông ở hòn non bộ của ông nội tôi. Nhìn kỹ thấy không phải, nên còn mê hơn nữa.Ông cụ chỉ quảy vỏn vẹn một chiếc dép trên vai mặt.Đó là lần đầu tiên tôi đến Chùa Bảo Quang ở Đà Nẵng. Đầu óc non nớt của một cậu bé chừng chín, mười tuổi đầu cứ mãi thắc mắc không biết chiếc dép còn lại ở đâu? Ông cụ có mang chiếc dép kia không? Mang có một chiếc thì đi đứng làm sao? Hay là cụ để dành chỉ mang mòn chiếc này rồi mới đến chiếc kia? Nhón gót lên cao để cố tìm, nhưng những vật dụng lỉnh kỉnh trên bàn thờ như nhang đèn hoa quả che mất tầm mắt nhìn của cậu bé, nêncậu ta không thấy được phần dưới của bức tranh, chỗ có đôi chân. Thắc mắc ấy đeo đuổi tôi trọn cả tuổi thơ nên cứ đến Chùa là tôi cứ chăm chú nhìn bức họa ấy! Bây giờ nghĩ lại, chắc có khi quý Sư Cô lo việc nhang đăng lúc ấy nghĩ tôi định dòm lấy cắp bánh chuối trên bàn thờ không chừng!

Lớn lên đôi chút, quý Sư Cô giải thích cho nghe thì biết được ông cụ chính là Tổ Bồ Đề Đạt Ma (?-529), Tổ Thiền Tông đời thứ 28 tính từ thời NgàiMa Ha Ca Diếp. Tổ Đạt Ma sanh tại Kanchi, Nam Ấn Độ con vua Hương Chí (Simhavarman?). Ngài là đệ tử của Tổ Bát Nhã Đa La (Prajnatara) và được sư phụ dặn dò sau này sang Trung Hoa truyền pháp. Ngài rời Ấn Độ bằng thuyền và sau gần ba năm mới tới Quảng Châu khoảng năm 520. Vua Lương Võ Đế có mời Ngài tới gặp, sau câu chuyện trao đổi, tuy thấy nhà vua là người có lòng với đạo Phật nhưng Ngài thấy không hợp căn cơ nên rời tới chùa Thiếu LâmTung Sơn. Ngài dừng nơi đó, suốt chín năm ngồi xây mặt vào tường nên được gọi là "Bích quán Bà la môn" (thầy Bà la môn ngồi nhìn tường). Sau đó có vị tăng Thần Quang (487-593) được Ngài thâu nhận làm đệ tử truyền pháp. Ngài Thần Quang được đổi tên là Huệ Khả và trở nên vị tổ thứ hai tại Trung Hoa. Ở Trung Hoa được chín năm, Tổ Bồ Đề Đạt Ma trao áo cà sa và bát báu cùng bốn quyển của bộ kinh Lăng Già cho Tổ Huệ Khả. Sau đó Tổ viên tịch vào năm 529, (có tài liệu ghi là năm 532), nhục thân của Ngài được nhập tháp tại chùa Định Lâm, núi Hùng Nhĩ, Trung Hoa. Có tài liệu ghi Tổ sống lâu trên 150 tuổi (đoạn này trích theo: tangthuphathoc.net).

Tương truyền, do sự ganh ghét tị hiềm của một số kẻ đương thời, Tổ bị đánh thuốc độc năm lần, mà Tổ tự cứu lấy. Đến lần thứ sáu, hóa duyên đã xong, Tổ thị tịch.

Nhưng lại cũng có nhiều tài liệu ghi là Tổ không chết và đã bay về Ấn Độ, chuyện ly kỳ ấy như sau :

Tống Vân đi sứ Tây Vức về, gặp Tổ trên ngọn Thông Lãnh, cầm một chiếc dép, đi như bay. Tống hỏi:

-Thầy đi đâu đó ?

Tổ đáp:Ta về Tây Phương!

rồi tiếp:

- Ông chủ của ông đã chán đời rồi!

Tống Vân về đến triều thì mới hay tin Ngụy Minh Đế đã mất. Tống tâu lên vua Hiếu Trang việc gặp Tổ trên đường. Vua ra lịnh quật mồ, thì trong quan tài không có gì cả, ngoài một chiếc dép.

Còn có quá nhiều huyền thoại khác về cuộc đời của Tổ, kể cả việc nhiều tài liệu còn ghi rằng, chính Tổ là tác giả cuốn Dịch Cân Kinh và Tẩy Thủy Kinh,là Tổ Sư của võ KungfuTung Sơn Thiếu Lâm (nhưng cũng có nhiều tài liệu bác bỏ quan niệm này), thì làm sao một người mê truyện kiếm hiệp Kim Dung như tôi không phục lăn Ngài được.

Thành ra, chuyện chiếc dép còn lại của Tổ Bồ Đề Đạt Ma đến cả bây giờ vẫn còn là một công án chưa mở ra, huống hồ chi trongtrí óc non nớt của một cậu bé mười tuổi là tôi thuở ấy làm sao lý giải được. Có lần trong một giấc mơtôi có gặp được Ngài và đã đánh bạo hỏi thẳng Tổlà chiếc dép kia của Tổgiờ ở đâu rồi? Tổ chỉ cười và nói rằng: Tội nghiệp, sao con thắc mắc hoài làm chi. Con cứ nghĩ là, ta đã tháo dép vác vai lội ruộng bị đỉa cắn nên chạy lẹ,rớt mất một chiếc lúc nào chẳng hay! Ta cũng chẳng thèm quay lại tìm làm chi cho mất công. Để thì giờ và công sức ấyđi tìm tự tánh, chân tâm có hơn không!

Dạ, tự tánh, chân tâm thì con có nghe giảng qua và có hiểu lờ mờ chút ít, còn đỉa bám vào chân thì lúc ở quê con cũng từng sợ khiếp vía. NhưngTổ ơi! vì Tổ là Tổ nên Tổ nói thế dễ dàng, chứ conlàm sao quên được chiếc dép trên cây gậy của Tổmà con đã mang nặng trong lòng suốt mấy mươi năm qua? Cái cậu bé đứng xơ rơ, chỉ cao đến nửa cánh cửa tủ thờ và cứ cố nhón chân nhìn lên hình Tổ đó chính là con ngày xưa.

Kính lạy Tổ!

[Hai]

Chuyện chiếc giày rơi của Thánh Gandhi.

Rồi tự dưng tháng trước chị Mười Nghiêm ở Thụy Sĩ gởi cho bài viết ngắn rất có ý nghĩa này, thêm vào sưu tập giày rớt dép rơi của tôi, (bài viết không thấy ghi xuất xứ nên xin chép cả nguyên văn vào đây, xin lỗi tác giả). Bài viết nói về chiếc giày rơi của Thánh Gandhi.

Xe lửa bắt đầu chuyển bánh. Gandhi nhảy vội lên tàu. Một chiếc giày của ông rơi xuống. Gandhi không thể nào nhảy xuống để nhặt nó trong khi tàu chạy càng lúc càng nhanh. Trước sự sững sờ của mọi người, Gandhi đã tháo luôn chiếc giày còn lại và ném về phía chiếc giày kia. Hành khách trên tàu lấy làm lạ về hành động kỳ quặc của ông. Gandhi mỉm cườigiải thích: “Nếu có một người nghèo nào lượm được chiếc thứ nhất, họ có thể tìm thấy chiếc thứ hai và sẽ xài được đôi giày của tôi”. Chúng ta thường ít nghĩ đến người khác mà chỉ nghĩ về bản thân mình. Khi chúng ta bị mất mát, điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến là những thiệt thòibất hạnh của mình. Chúng ta mất quá nhiều thì giờ cho sự tiếc nuối, than thở, chán nản, thậm chí trở nên cáu gắt và bực bội vì những rủi ro xảy ra. Gandhi đã có một hành động thật cao quý bởi trong sự mất mát của bản thân như thế, ông vẫn có thể nghĩ đến người khác.Hành động của Gandhi chứng tỏ việc nghĩ đến người khác đã trở thành một phần trong tư tưởng và nguyên tắc sống của ông. Nếu trong những lúc bình anthành côngchúng ta còn không quan tâm lo lắng cho những kẻ bất hạnh hơn mình thì liệu khi gặp khó khăn, mất mát, ta có thể làm được điều đó hay không?

Xung quanh ta có biết bao nhiêu người khó khăn. Họ đang cần sự giúp đỡ. Những gì họ thiếu thốn không phải lúc nào cũng là vật chất, mà đôi lúc chỉ là một lời động viên an ủi. Thế giới của chúng ta sẽ hạnh phúc biết bao nếu mỗi người không chỉ chăm lo về lợi ích riêng của mình mà còn chăm lo về lợi ích của người khác nữa.

[Ba]

Mất một lại được hai, thêm cả đóa hoa tươi

Mấy chuyện kia là chuyện xưa, tin hay không là tùy bạn. Tôi có một câu chuyện mà chính tôi cũng là một nhân vật trong đó. Chuyện đã trên hai mươi năm rồi, xảy ra tại Kushinagar Ấn Độ. Chuyện như thế này:

Chuyến hành hương Phật tích Ấn Độ, do Ni Sư Diệu Tâm (bây giờ là Sư Bà) làm trưởng đoàn, của chúng tôi đã đến khoảng gần cuối tuần lễ thứ hai. Đoàn chúng tôi vừa về đến Kushinagar, nơi đức Phật nhập Niết Bàn. Đến địa điểm đức Từ Phụ xả báo thân thị tịch ai cũng quá bùi ngùi. Lúc vào chiêm báiđi kinh hành quanh pho tượng Phật nhập diệt chúng tôi muốn rơi nước mắt, mấy bác nữ không cầm được phải bật òa ra tiếng khóc. Nhất là khi nghe giải thích rằng, lúc tượng được khai quật lên người ta đã tìm thấy nhiều bộ xương của các tu sĩ ngày xưa trong tư thế đã ôm bảo vệ tượng khi những kẻ phá hoại muốn hủy, và đã bị chôn sống theo. Vừa về đến Chùa Linh Sơn thì người hướng dẫn viên người Ấn cho biết, anh có gặp được những người quen ở địa phương và họ cho biết là còn có một đền thờ nhỏ, ghi dấu là nơi đức Thích Ca đã từng đặt chân đến đây. Địa điểm tham quan ngoài chương trình, vả lại không muốn quấy rầy những giờ phút thanh tịnh và nghỉ ngơi cần thiết của đại chúng nên Ni Sư nói là chỉ vài người cùng đi mà thôi. Cuối cùng thì cónăm, sáu người gì đó theo hướng dẫn viên Ấn Độ đến thăm ngôi đền kia. Đi vào ngôi đền, lát gạch khá sạch sẽ, thấy nhiều gạch đổ như mới khai quật, trong đó có một phòng thờ tôn tượng Phật trong tư thế Nhập Niết Bàn. Khi bắt đầu bước vào ngôi đền, Ni Sưchúng tôi cởi giày dép phía trước đền và cung kính đi vào. Chúng tôi lễ lạy, thưởng thức cảnh cô tịch vắng lặng nơi đất Phật. Thực hư về Phật tích chúng tôi cũng chẳng màn đến, chỉ lắng lòng đi những bước chân trần tiếp xúc với mãnh đất của Từ Phụ thuở xưa. Sau khi đi kinh hành giáp vòng và quay lại chỗ cũ để mang giày thì phát hiện ra một đôi xăng-đan và một chiếc dép bị mất, đôi xăng-đan là của tôi và một chiếc dép là của Ni Sư. Người giữ đền khi nghe chúng tôi báo tin rất giận dữ và quát tháo gì đó, chúng tôi không hiểu, có lẽ ông ta giận vì sự sơ suất làm mất uy tín cơ sở của ông. Điểm đáng nói là có nhiều đôi dép để đó nhưng kẻ cắp lấy ngay dép của Ni Sư và chỉ lấy có một chiếc. Chúng tôi đoán là do đôi dép ấy có chữ Adidas và kẻ ăn cắp phải rất vội vã vì người giữ đền luôn có mặt tại đấy, có thể vì chỉ lơ là vài phút thôi, cũng vì thế mà ông ta rất tức giận. Mất đôi xăng-đan tôi rất bực mình, nhưng Ni Sư thì lại rất thản nhiên. Mấy vị cùng đi cũng bực bội không kém và đi tìm kiếm giúp,xem có thể ai đó đi vô ý đá văng vào góc nào đó chăng? Nhưng tìm mãi mà vẫn không thấy. Sau mấy phút tìm kiếm, Ni Sư nói rằng: Mọi vật đều vô thường. Đền đài thành quách như thế này mà còn tàn lụi huống hồ chi chiếc dép mà cứ tìm kiếm, cay cú làm chi. Nói rồi Ni Sư tự tay mang chiếc dép còn lại để ở một góc sân phía ngoài, nói là nếu ai kiếm được (hay kẻ cắp quay lại) thì họ sẽ có cả đôi dép mà xài và tự tại đi chân không về Chùa. Mấy Phật Tử đi theo nét mặt không vui lắm. Sau khi Ni Sư về đến Chùa thì họ nhờ tôi đi theo ra chợ để phiên dịch giúp họ mua đôi dép khác cúng dường Ni Sư. Buổi tối sau khi dùng cơm xong chúng tôi họp mặt nhau ở chánh điện nghe giảng pháp, sau đó phải lo chuẩn bị tiếp tục chuyến đi vào sáng sớm ngày mainên quên ngay chuyện chiếc dép.Tờ mờ sáng hôm sau, lúc chúng tôi chuẩn bị lên đường đi Nepal đến chiêm bái Lâm Tỳ Ni viên thì thấy ai đó đã để sẵn đôi dép Adidas của Ni Sư và đôi xăng-đan của tôi trong góc vườn Chùa, trên đôi dép của Ni Sư còn có một đóa hoa tươi. Bạn có thể tưởng tượng được tôi vui biết chừng nào, còn hơn lúc con nít được bánh kẹo. Thật ra những vật dụng ấy cũng không đáng giá bao nhiêu nhưng rất cần thiết cho những ngày hành hương còn lại. Ni Sư thì vẫn thản nhiên bước lên xe, chỉ mỉm cười nói một câu: "hảo ý hoàn hảo sự“, nếu ý chân chính thì sẽ đáp đền bằng những sự việc tốt lành.

Mô Phật! Lại thêm một bài học về cách nhìn và cách hành xử trong cuộc sống cho tôi, không những chỉ trong những ngày bình an hành hươngtrên đất Phật mà còn cả cho những năm tháng về sau.Tôi thầm nghĩ, chắc câu nói ấy hôm đó Ni Sư chỉ nóicho riêng tôi, chứ nếu giảng pháp cho cả đại chúng mấy chục người trong xe thì có thể Ni Sư sẽ nói về hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm: “từ nhãn thị chúng sanh, lấy mắt thương nhìn cuộc đời, lấy tâm từ cứu giúp chúng sanh v.v…”. Dù sao thì dù, bài học thân giáo tuyệt vời ấy đã ghi sâu trong tôi và cho cả mấy người dân Ấn ở đất Phật vùng Kushinagar hôm ấy.

Sau này trong cuộc sống bận rộn bon chen, có rất nhiều khi, đứng trước một việc bâng khuâng khó xử hay đối đầu trước một quyết định không biết phải tiến hay lùi, tôi thường hay tự lẩm bẩm một mình như tự nhắc cho tôi câu phương châm ở Kushinagar hôm ấy: ai kia ơi! nhớ nhé, hảo ý hoàn hảo sự.

Nguyên Đạo – Vu Lan 2014

Ghi vội nhân Lễ Kỷ Niệm 30 năm Bảo Quang Hamburg

Kính dâng Ni Trưởng và quý Sư Cô Chùa Bảo Quang.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1098)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 793)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1003)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1005)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1605)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1249)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 966)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1367)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1322)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1255)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant