Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lại Nhớ Về Ôn Già Lam

19 Tháng Chín 201411:02(Xem: 13043)
Lại Nhớ Về Ôn Già Lam


Lại Nhớ Về Ôn Già Lam

 

Cuối tuần qua, tại Trại Huấn luyện Huyền Trang V ở Hayward, CA.  Vừa lắng nghe và thông dịch lại cho các Trại sinh không hiểu tiếng Việt qua đề tài Thấu đáo về Hiện tình Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất. Hoà thượng Thích Nguyên Siêu, với tình thương sâu đậm cho tổ chức GĐPT và đầy lòng vị tha, nhắc lại lịch sử của Giáo hội.  Đến giai đoạn khó khăn của Giáo hội, một lần nữa Thầy kể lại chuyện của Ôn Già Lam—người đã âm thầm chọn một lối đi cô quạnh độc hành nhưng đầy biết bao tình thương, trung dungtrí tuệ

Trong giai đoạn nhiễu nhương và phức tạp nhất, Ôn Già Làm đã giữ vững tay chèo đưa con thuyền của Giáo hội qua những cơn bão tố phong ba của thời đại. Bằng sự sáng suốt của tuệ giác, bằng tâm từ bi vô lượng và bằng hạnh nguyện vô uý thí Ba la mật, Ôn đã nói với Thầy Tuệ Sỹ: “Tôi già rồi, tôi chịu nhục cho quý Thầy làm việc” (1).

Thầy Nguyên Siêu lại nhắc đến câu nói bất hủ đó.  Thế rồi, chỉ vài năm sau, Ôn Già Lam đã mất tại bệnh viện của chế độ Cộng Sản.  Nói đến đây, nhìn lên hàng Huynh trưởng thâm niên và cao niên của tổ chức, ai cũng đỏ hoe đôi mắt.  Giọng Thầy cũng đã nghèn nghẹn, Thầy ngừng lại để hít một hơi thở sâu và cá nhân chúng tôi cũng không có cách nào hơn là lau đi những giọt nước mắt đầy tình thương và kính phúc đến với Giác linh cố Hoà thượng thượng Trí hạ Thủ.  Có lẽ con đường Ngài đi là con đường ‘Thiên Lý Độc Hành’ nhất trong đời điểm Phật giáo cận đại

Xin được mở ngoặc, nói lại chuyện xưa, cá nhân chúng tôi nhớ lại một câu chuyện khoảng hơn 10 năm trước khi chở Hoà thượng Thích Minh Đạt (2), nguyên là Tổng vụ Trưởng tổng vụ Thanh Niên đầu tiên tại Hoa Kỳ, từ San Jose về lại Stockton, trong khi hầu chuyện với Thầy về vận mệnh của Giáo Hội xưa và nay, Thầy kể rằng thuở đó khi chính quyền Việt Nam ép quý Thầy quý Ôn trong Giáo Hội trực thuộc nhà nước dưới quyền kiểm soát của Mặt Trận Tổ Quốc. Ôn Già Lam đây có chịu, quan điểm của Ôn là  “Không chống mà cũng không theo”, rồi nhân duyên đưa đẩy… và cuối cùng Ôn chấp nhận cụm từ “Giáo hội CÓ thành viên trong Mặt Trận Tổ Quốc” và sau đó Chính quyền tráo trở biến chữ “CÓ” thành chữ “LÀ”… thành ra “Giáo hội LÀ thành viên trong Mặt Trận Tổ Quốc” (1) (Xin xem tham khảo số 1 để biết thêm chi tiết).

Thầy Minh Đạt (2),  kể chuyện này là để nhấn mạnh rằng Ôn Già Lam là một vị Cao tăng thạc đức, tâm Từ của Ôn mênh mông như dãi ngân hà, Ôn hiền lành và trung trực, luôn nghĩ về đại cuộc cho Phật giáo Việt Nam, mà không có một khái niệm gì về chính trị, vì chính trị vốn rất thủ đoạn như chuyện kể ở trên. Ôn đã một lòng nghĩ đến vận mệnh Phật giáo và Đất nước trong tình cảnh hiện tại lúc bấy giờ cho tương lai của Phật giáo Việt Nam.

Để kết thúc, nói đến Ôn Già Lam là nói đến sự hy sinh tận tuỵ, nói đến Ngài là nói đến chuỗi thời gian khó quên của Phật Giáo, nói đến Ngài là nói đến sự truyền thừa Chánh Pháp, và nói đến Ngài là nói đến biểu tượng của Từ Bi, Khoan DungNhẫn Nhục. Và giờ đây, xin mượn lời thơ của Quách Tấn nói về Ôn…  

“Mười phương cây lặng gió

Năm sắc hồ trôi mây

Làn nước lên đầu núi

Ánh vàng tràn đó đây.” (3) 

Tâm Thường Định

 

Tài Liệu Tham Khảo

1. Thượng Toạ Thích Tuệ Sỹ Kể Lại Một Vài Chi Tiết Về Giai Đoạn Thành Lập GHPGVN và Hoà Thượng Thích Trí Thủ

http://thuvienhoasen.org/a8191/thuong-toa-thich-tue-sy-ke-lai-mot-vai-chi-tiet-ve-giai-doan-thanh-lap-ghpgvn-va-ht-thich-tri-thu

2. Cuộc đàm thoại cá nhân (personal communication) với Thầy Thích Minh Đạt

3. Hoài Niệm Hòa Thượng Thích Trí Thủ Quách Tấn

http://thuvienhoasen.org/p60a14866/1/hoai-niem-hoa-thuong-thich-tri-thu-quach-tan

 

 

Rổ Rau Của Mẹ

 

Vườn xanh mơn mởn

Rổ rau đong đầy

Thấy cả đám mây

Nụ cười thanh thản

 

VƯỜN NHÀ TÌNH TA

 

Êm đềm trong nắng thu loang

Gió say khóm trúc bên con cùng nàng 

Hương chi thanh thoát mơ màn 

Rau răm, hương tóc hoà tan tiếng cười

Mắt nhìn như tuổi đôi mươi...

 


Và Em...


Em từ lục bát bước ra
Từ bi hỷ xả buông xa muộn phiền
Lục hoà nếp sống dịu hiền
Bát Chánh là đạo,
thiêng liêng con người
Bước đi chánh niệm thêm tươi
Vào ra
hơi thở
nụ cười 
từ tâm.

 

ĐÔI MẮT THẦN TIÊN

Đôi mắt ấy long lanh
Như sao đêm sâu thẳm
Bờ môi người thầm lặng
Nụ cười hiền trăm năm.

Cõi phù du người đến
Hiện hữu giữa hư không
Bao triệu người thương mến
Tròn khuyết một tấm lòng.

Vẫn im lặng sấm sét
Vẫn hiên ngang nhẹ nhàng
Vẫn từ bi rõ nét
Bồ Tát Địa thênh thang.

Đôi mắt ấy long lanh
Niềm vui và hy vọng
Hạt sương gầy vừa đọng
Mặn ngọt cõi yêu thương!


Ôn Tuệ Sỹ
Ôn Tuệ Sỹ - ảnh lấy từ Thầm Lặng's fb page

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1098)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 793)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 979)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 921)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1003)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1004)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1249)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 965)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1366)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1321)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1255)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant