Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tu Nhà Tu Chợ Tu Chùa Cái Nào Dễ Hơn?

03 Tháng Sáu 201510:39(Xem: 8802)
Tu Nhà Tu Chợ Tu Chùa Cái Nào Dễ Hơn?

TU NHÀ TU CHỢ TU CHÙA CÁI NÀO DỄ HƠN?
và những bài pháp ngắn khác

Thích Đạt Ma Phổ Giác

 


Tu Nhà Tu Chợ Tu Chùa Cái Nào Dễ HơnTục ngữ Việt Nam có câu: Thứ nhất tu nhà, thứ hai tu chợ, thứ ba tu chùa. Câu nói này dân gian cho rằng tu tập tại gia là việc dễ nhất, bởi vì các thành viên trong gia đình đều là những người thân yêu, nên mọi việc đều có thể cảm thôngtha thứ hơn, dễ bỏ qua những lỗi lầm sai trái, như cha mẹ thương con, vợ chồng thương yêu, anh chị em vui vẻ thuận thảo với nhau.

Kế đến, khi ra chợ làm ăn mua bán, mà muốn tu thực là không phải dễ, bởi vì những người ở ngoài chợ tập trung nhiều thành phần khác nhau, mua bán giống như làm dâu trăm họ, nếu không khéo một chút thì mất mối! Vô chùa tu lại càng khó hơn, bởi vì giới luật nhà chùa, khắc khe nghiêm ngặt, thường được sự giám sát của các bậc đạo cao đức trọng, sống muốn ít biết đủ, ăn chay và đi ngược lại sự ham muốn của người đời.

Nhưng thực chất tu ở chùa là dễ dàng nhất, bởi vì không phải lo chuyện tính kế sinh nhai, không bận rộn hay bị tiêm nhiễm chuyện thế gian, có thầy lành bạn tốt sách tấn đồng tu. Còn tu tập tại gia là việc khó khăn nhất, bởi vì người trong gia đình quá quen thuộc, cho nên dễ lờn mặt, khó tu khó sửa, tình cảm luyến ái nặng nề, không người nhắc nhở, khuyến khích tu tập, do đó mà bụt nhà không linh, không thiêng là vậy đó.

Hơn nữa cuộc sống thế gian của người tại gia, đủ thứ cám dỗ, và rất nhiều cái bẫy đang giăng sẵn chực chờ nào là bẫy tiền tài, bẫy danh vọng, bẫy sắc đẹp, bẫy ăn ngon, mặc đẹp, ngủ nhiều, vã lại với đủ thứ phiền não, khổ đau cuộc đời, suốt ngày bận rộn với công kia việc nọ, không có thời giờ, thì thử hỏi làm sao tu được?

Tu chợ so với tu nhà thì ít khó hơn, bởi vì mỗi ngày chỉ đi chợ chừng một tiếng đồng hồ là nhiều, có khi mỗi tuần chỉ đi chợ năm ba ngày, tu ngoài chợ chỉ cần nhỏ nhẹ, tế nhị, bán đúng giá thuận mua vừa bán, thường thì người mua dễ bị lầm hơn.

Vậy theo quan niệm nào mới thật sự là đúng? Thật ra mỗi chỗ mỗi nơi đều có cái khó riêng của nó, ai có duyên tu trong điều kiện nào thì chỗ đó là số một. Tu chợ, tu tại gia rất cần thiết cho đại đa số quần chúng bởi vì nó là nhân tố nền tảng đối với gia đìnhxã hội. Nói tóm lại, bất cứ hoàn cảnh nào, dù dễ hay khó, chúng ta phải cố gắng tu vì đó là quyền lợi của bản thân, mình không biết tu thì sẽ gánh chịu hậu quả khổ đau, tu được thì mình sẽ an lạc, hạnh phúc!

Phật dạy yêu thương xa lìa khổ, oán ghét gặp nhau khổ, mong cầu không được như ý khổ. Nhờ có khổ như vậy nên chúng ta mới đến chùa tìm hiểu học hỏi, mong sao để được hết khổ. Nhưng phần đông rơi vào tình trạng lấy cảnh chùa làm nơi trốn tránh cuộc đời, trốn tránh trách nhiệm, bổn phận đối với gia đình người thân.

Cuộc sống thế gian có quá nhiều đau khổ nay mình biết chùa muốn tu, muốn dứt bỏ gia đình người thân, nhưng không ai cho phép? Nhiều người muốn vào chùa thọ bát quan trai một ngày một đêm nhưng gia đình không cho phép.

Ở đây chúng đang thấy một sự thật, vì mỗi khi trong gia đình có sự bất hòa thì phần lỗi ít nhiều gì đó đều do hai bên, không biết thông cảm cho nhau, không thực sự thương yêu nhau.

Tu học là nhằm mục đích để tỉnh thức, nhận ra những điều sai lầm mà trước đây mình không hề hay biết. Ai cũng muốn thương và được thương yêu một cách bình đẳng. Ngày nay, vợ chồng ly dị là chuyện thường. Sống chung mà không biết thương yêu nhau, chỉ làm khổ nhau thì tốt hơn là nên ly dị. Nhưng nhiều khi ly dị xong ta lại cảm thấy cô đơn, muốn đi tìm một người tình khác để yêu, để cưới và để rồi lại ly dị.

Nhiều lúc khổ quá, muốn đi tu, nhưng tu làm sao cho yên khi tình cảm dành cho nhau vẫn còn ướt át? Và chúng ta nên nhớ tu không phải là dứt hết tình nghĩa, mà là thay đổi quan niệm sống để không quá bi lụy trong tình yêu. Nếu chúng ta dứt hết tình cảm thì đâu còn là người nữa, tu như vậy vô tình ta ví mình như gỗ đá chăng?

Tu là sửa, là chuyển, là thay đổi. Từ đau khổ chuyển thành an vui, từ tình thương yêu ích kỷ, thành tình thương yêu bình đẳng, vị tha. Vào chùa học đạo mà chỉ biết thương Phật tượng, Phật gỗ mà không biết thương yêu kẻ khác thì đó chưa phải là người tu chân thật. Phật là người đại từ, đại bi thương tất cả chúng sinh một cách bình đẳng mà không phân biệt thân hay sơ.

Cuộc sống của chúng ta khi có mặt trên cõi đời này là phải ăn với uống để bảo tồn mạng sống, lớn lên rồi lấy vợ, lấy chồng để phát triển giống nòi nhân loại. Từ đó sinh chấp ngã và muốn chiếm hữu để bảo vệ gia đình mình, đất nước mình, người có quyền cao chức trọng nếu không tin sâu nhân quả sẽ tham nhũng làm lãng phí, gây thiệt hại trầm trọng tài sản của chung.

 

HẠNH PHÚC HAY KHỔ ĐAU ĐỀU DO MÌNH TẠO LẤY

Khi buồn khổ hay bất an một điều gì, chúng ta hay đổ thừa vì hoa hồng có gai, nhưng khi vui vẻ hay hạnh phúc chúng ta lại thấy hoan hỉ vì trên cành gai kia xuất hiện một đóa hoa hồng. Thế gian này khổ hay vui tùy thuộc rất nhiều từ sự nhận thức của mọi người.  

Chúng ta muốn thưởng thức những đóa hồng đẹp thì phải chấp nhận thân gai góc của nó. Hoa hồng mềm mại, thơm tho và đẹp đẽ nên ai cũng thích ngắm nhìn, thưởng thức hương vị ngọt ngào của nó nhưng trên thân hoa lại có nhiều gai góc. Nếu muốn thưởng thức sự tinh khiết của hoa thì ta phải chấp nhận thân gai góc. Cũng vậy, thân ta vô thường bại hoại nên mới bị sự chi phối của già-bệnh-chết, nhưng ngay nơi thân này có tính biết sáng suốt; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, thấy tức biết; nương nơi tai thì nghe thấu mọi âm thanh sai biệt của muôn loài vật nên nghe chỉ là nghe; mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại như thế.

Người lạc quan luôn nhìn đời với các vì sao lấp lánh nằm trên bầu trời quang đãng, sáng trong. Chính vì vậy họ thấy thế giới luôn tươi vui, xinh đẹp như những đóa hoa hồng. Người bi quan thì thấy thế giới là cả một bầu trời đen tối chỉ toàn khổ đau nên thấy rất nhiều hầm hố, chông gai. Với người biết sống một cách thực tế thì thấu rõ chân lý của cuộc đời nên thấy thế giới không hoàn toàn tươi vui, xinh đẹp như hoa hồng mà cũng chẳng hoàn toàn nhiều gai góc.

Trong cuộc sống những ai có hiểu biết chân chínhnhận thức sáng suốt thì không đam mê, say đắm bởi cái đẹp của hoa hồng. Họ nhìn thấy hoa hồng chỉ là hoa hồng và vẫn biết rõ trong hoa hồng phải có chất liệu của gai nên luôn cẩn thận để khỏi bị gai làm đau nhức.

Hoa hồng tượng trưng cho bốn hoàn cảnh thuận lợi trong cuộc sống như được lợi lộc, được khen ngợi, được tán thán và được vui vẻ hạnh phúc. Gai góc thì được ví như bốn sự không hài lòng, vừa ý trong cuộc sống như bị mất mát, bị chê bai, bị hủy nhục và bị khổ đau. Đã làm người trong cuộc sống tất cả chúng ta đều phải trực diện với các hoàn cảnh ấy dù ít hay nhiều trong dòng đời nghiệt ngã này. Ai có đủ khả năng, ý chí, nghị lực, trí tuệ và sự sáng suốt thì sẽ vượt qua cạm bẫy cuộc đời bằng cách tin sâu nhân quả, siêng làm các việc thiện, không làm việc xấu ác.

HIỂU BIẾT CHÂN CHÍNH SẼ GIÚP TA SỐNG HẠNH PHÚC HƠN

 

Cuộc sống của chúng ta khi có mặt trên cõi đời này là phải ăn với uống để bảo tồn mạng sống, lớn lên rồi lấy vợ, lấy chồng để phát triển giống nòi nhân loại. Từ đó sinh chấp ngã và muốn chiếm hữu để bảo vệ gia đình mình, đất nước mình, người có quyền cao chức trọng nếu không tin sâu nhân quả sẽ tham nhũng làm lãng phí, gây thiệt hại trầm trọng tài sản của chung.

Có khi nào trong cuộc sống với bộn bề công việc, ta biết dừng lại để tự hỏi chính mình sinh ra đời để làm gì? Chắc chắn ai cũng nói rằng để lập gia đình, sinh con đẻ cái nối dõi tông đường? Để gầy dựng sự nghiệp tương lai cho bản thân và gia đình? Từ quan niệm đó chúng ta chạy theo tiền tài, danh lợi, địa vị, tình yêu, sắc đẹp, của cải, và ăn sung mặc sướng!

Thật chất ta lớn lên lấy vợ lấy chồng không phải để thỏa mãn tình cảm nhục dục hay lấp vá khoảng trống cô đơn, mà là để học sự thương yêu trong hiểu biết và biết cách hòa hợp của hai trái tim, khi sống chung với nhau trong một mái ấm gia đình

Tất cả mọi người trên thế gian này ai cũng phải điều biết "tu tâm", nghĩa là chúng ta chừa bỏ những tâm niệm xấu ác có tính cách làm tổn hại cho người và vật. Nhờ vậy, chúng ta ngày càng mở rộng tấm lòng từ bi rộng lớn, để san sẻ nỗi khổ niềm đau, làm vơi bớt sự bất hạnh và sống tốt hơn, bằng tình người trong cuộc sống. 

Con người có tu mới sống được an vui hạnh phúc và khi gặp cảnh mất mát khổ đau của bản thângia đình, cũng không làm cho ta phải thất chí nản lòng vì ta đã có niềm tin nhân quả, niềm tin chính mình, hạnh phúc hay khổ đau là do mình tạo lấy. Chúng ta đã gieo nhân trước kia thì giờ đây gặt quả, trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu, kết quả tốt hay xấu khi hội đủ nhân duyên quả báo liền đến. 

Chúng ta tu để làm gì? Và tu như thế nào để cho được an vui, hạnh phúc? Người đời làm việc xấu ác, vì không tin tâm mình là Phật. Con cái không hiếu thảo cha mẹ, vì không tin sâu nhân quả. Trẻ em không chịu vâng lời thầy cô giáo chỉ dạy, không siêng năng chăm chỉ học hành, vì chẳng biết tu tâm. Gia đình sống không vui vẻ thuận thảo, không biết kính trên nhường dưới, vì chẳng biết tu tâm. Xã hội hay nói nặng, mắng chửi kiện cáo nhau vì chẳng biết tu tâm. Thế giới đấu tranh tham lam giành giựt giết hại lẫn nhau, vì chẳng biết tu tâm

Phật tử tu hành hay bị thối chuyển, bởi vì hay cầu khẩn van xin không tin tưởng chính mình ỷ lại vào bên ngoài. Mọi người ai cũng có khả năng nhận diện tâm qua sự xúc chạm thấy nghe hay biết, mới có thể trở nên hiền từ, sống chân thật, đạo đức và biết giúp đỡ, sẻ chia bằng tình người trong cuộc sống.
Gia đình người thân biết tu tâm, thì mới được bình yên, an vui, hạnh phúc. Xã hộitu tâm, thì đất nước mới an cư lạc nghiệp trên tinh thần đoàn kết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau bằng trái tim hiểu biết

Thế giới ai cũng biết tu tâm, thì mọi người sống trong hòa bình. Phật tử biết tu tâm, mới mau vượt qua biển khổ sông mê. Và Phật dạy không thấy ai là kẻ thù chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi, cho nên chúng ta phải bình đẳng thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, bằng trái tim hiểu biết.
Một người biết làm lành, tránh xa những điều xấu ác thì người ấy trở nên hiền từđức độ. Cả gia đình đều tránh dữ làm lành, thì mọi người đều được bình yên, hạnh phúc. Cả nước đều tránh giữ làm lành thì tất cả mọi người đều sống trong an lạc thái bình. Hết thảy mọi người đều tránh dữ làm lành, thì chúng ta sẽ sống trong thế giới đại đồng, hưởng trọn vẹn niềm vui cực lạc

Trong cuộc sống của chúng ta ai cũng mong cầu hạnh phúc nên suốt đời cứ mãi tìm kiếm để vượt qua hai điều thiếu thốn: Thứ nhất là thiếu thốn về vật chất và thứ hai là thiếu thốn về tinh thần. Người thiếu thốn về vật chất thì cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, có khi không nhà cửa hoặc có thì với túp lều lụp sụp, thân phải khổ sở nhọc nhằn làm thuê làm mướn, đầu tắt mặt tối mà nợ nần vẫn chồng chất

Người thiếu thốn về tinh thần thì tham lam, ích kỷ, gian xảo, dối trá, ganh ghét tật đố, lường gạt, đầu trộm đuôi cướp gây ra nhiều tội lỗi làm tổn hại đến gia đình người thân và xã hội. Thế gian con người chi lo thiếu thốn về vật chất, mà ít ai nghĩ ngợilo lắng đến tinh thần!

 

LÀM CHỦ BẢN THÂN ĐỂ VƯỢT QUA SỐNG CHẾT

 

Trong kinh A Di Đà, Phật nói rõ ràng, ai tu nhất tâm bất loạn từ một ngày cho đến bảy ngày, thì Phật sẽ rước. Đạo Phật là đạo của nhân quả trên nền tảng tương xứng, bình đẳng, chúng ta không thể lấy một chút phước nhỏ mà đòi quả lớn thì e rằng không được.

Phật dạy người có nhiều đức tính tốt thường xuyên làm lợi ích cho nhân loại đó là bậc thầy ta, ta hãy nên bắt chước học và làm theo những cái hay của họ. Người khác có cái dở hơn ta cũng là bậc thầy của ta, cho nên ta cũng phải học để không mắc phải sai lầm. Thầy hay, chúng ta bắt chước học và làm theo, thầy dở, chúng ta học để tránh không gây ra những lỗi lầm đáng tiếc. 

Cũng vậy, khi phát tâm tu hành, người trợ giúp phương tiện để ta tiến tu là bậc thiện hữu tri thức, còn người làm chướng ngại gây phiền hà cho ta cũng chỉ để thử thách coi mình tu có tiến hay không mà thôi. Người giúp phương tiện chỉ dạy là sách tấn mình tu từ từ, người làm trở ngại để thử thách sẽ giúp mình thăng tiến nhanh hơn, cả hai đều là Bồ Tát thuận hạnh và nghịch hạnh để giúp mình tiến tu, nên trong hai người ta đều phải mang ơn hết. 

Chỉ có người hèn yếu, không dám can đảm nhìn rõ mọi vấn đề cho tường tận, tu gặp nghịch cảnh, chướng duyên, lẽ ra phải tìm cách thắng nó cho bằng được, thì lại không hài lòng, vừa ý. Mình tu là phải quyết tâm mạnh mẽ để không cho sân-si nổi lên mới thực là tu. 

Hiểu như vậy, ta mới thấy mình tu có tiến được hay không là do cách nhìn của mình có thực đúng như lời Phật dạy, nếu nhìn không đúng thì việc tu hành cũng bị lệch lạc theo thời gian. Người phát tâm tu ai cũng muốn chuyển hóa tham-sân-si thành vô lượng trí tuệ từ bi. Vậy mà đa số người tu khi gặp chướng duyên cứ trách móc thiên hạ, đổ thừa hoàn cảnh, “tôi muốn tu mà ma quỷ cứ phá tôi hoài”, chứ không biết chính mình không thật tu, hoặc tu còn quá yếu, nên phiền não, tham- sân-si còn hoài. Nếu nói theo đạo lý chân thật thì thế gian này không ai có thể phá mình cả, chỉ có ta tự làm cho ta lui sụt mà thôi. 

Trong cuộc đời này không có cái gì ở bên ngoài hại ta cả, chỉ có mình không làm chủ được bản thân. Nếu biết rõ ràng mọi thứ tai họa từ tham-sân-si nơi mình chứ không phải do ai khác, thì ta sẽ biết cách chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, hạnh phúc.  

Khi Phật còn tại thế, một ngoại đạo đã chứng được ngũ thông, giảng pháp rất hay, đến nỗi trời Đế Thích phải xuống nghe. Pháp thoại vừa xong, trời đế Thích mới khóc, vị ngoại đạo ấy hỏi nguyên do. Đế Thích nói, “thầy đã sắp hết tuổi thọ, nên tôi rất lấy làm tiếc nuối mà khóc thương cho thầy thôi”. Vị đó nghe vậy mới hỏi tiếp, “có ai ở trần gian này có thể giúp tôi thoát ly sinh tử không?” Đế Thích nói, “thầy hãy đến tịnh xá Kỳ Viên gặp Phật Đà, Người sẽ làm được điều đó”. Mừng quá, ông cám ơn trời Đế Thích, rồi vận thần thông bay đi.  Trên đường gần tới tịnh xá, ông thấy hai cây hoa đẹp quá, liền nhổ chúng đến cúng dường Phật. Khi thấy ông đến, hai tay cầm bó hoa, Phật liền bảo, “buông!”. Ông ta buông tay trái, bó hoa rớt xuống đất. Phật lại bảo, “buông!”. Ông ta buông tay phải, bó hoa kia cũng rớt xuống đất. Phật lại bảo buông tiếp. Ông ta ngơ ngác đứng nhìn và thưa rằng, “bạch Thế Tôn, con đã buông cả hai tay rồi, còn gì nữa đâu mà buông?” 

Nhân khi đó, Phật dạy, “Như Lai bảo ông buông lần thứ nhất là dạy ông buông bỏ sáu căn, lần thứ hai Như Lai dạy ông buông bỏ sáu trần, lần thứ ba Như Lai dạy ông buông bỏ sáu thức”. Ngay câu nói đó, vị ngoại đạo liền được thoát ly sinh tử, không còn sống chết nữa. 

Chỉ đơn giản vậy thôi, Phật chỉ bảo ba lần buông làm cho ông ngơ ngác, vì trên tay chỉ có hai bó hoa. Ông đang thao thức tìm cách giải thoát sống chết, nên bao nhiêu tâm trí đều dồn vào đó, Phật chỉ khơi nhẹ làm ông tỉnh thức, buông xả ý thức chấp ngãthành tựu Niết Bàn.
Ngoại đạo đó đã tu chứng ngũ thông, tức gần kề bên bờ giải thoát, nhưng do còn ý thức chấp ngã, thấy mình có tu, có chứng, nên còn dính mắc, không thể thoát khỏi sống chết. Nhờ Phật khai thị, ông ta buông xả kiến chấp, liền thoát ly sống chết

Người chứng ngũ thông có những diệu dụng như sau:

_ Tha tâm thông: là thấy biết được tâm tư của người khác đang suy nghĩ và mong muốn gì.

_ Thiên nhãn thông: là thấy được tất cả chúng sinh luân hồi sống chết, thăng lên lộn xuống trong ba cõi sáu đường, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường, nghiệp quả do chính mình tạo lấy, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau, không ai có quyền ban phước, giáng họa.

_ Túc mạng thông: nghĩa là nhớ lại được vô số kiếp về trước mình đang làm gì, ở đâu?

_ Thần túc thông: là biến hóa khôn lường, có thể chui vào lòng đất, bay lên hư không, mà không bị sự ngăn ngại nào.

_Thiên nhĩ thông: nghe được âm thanh lớn nhỏ, gần xa.
Mắt ta thấy sắc, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân xúc chạm, ý phân biệt, cái gì thích thì bám víu, chạy theo, cố tâm tìm cách chiếm đoạt, cái gì không ưa thì ghét bỏ. Đối với người Phật tử, mắt cũng cần thấy mọi hình ảnh, sự vật, tai cũng cần nghe mọi âm thanh lớn nhỏ, êm dịu, hoặc hằn học, nặng nề, tuy vẫn thấy nghe, hay biết, nhưng không bị nó làm nhiễm ô, say đắm, mê muội

Đạo Phật khuyên chúng ta không nên dính mắc, đắm say quá đáng vào thấy nghe, hay biết, để được bình yên, hạnh phúc. Trong thực tế, bản chất của sáu trần vốn không có lỗi. Cái lỗi lớn nhất là do tâm phân biệt, thương ghét, vọng tưởng điên đảo của con người. Con người vì đắm nhiễm, dính mắc sáu trần mà gây ra nỗi khổ, niềm đau, nên mãi trôi lăn trong luân hồi sanh tử

Mắt vẫn thấy sắc mà thường biết rõ ràng, sự việc như thế nào thì thấy biết như thế ấy; tai vẫn nghe tất cả mọi âm thanh, nhưng không khởi tâm phân biệt, vừa ý hay không vừa ý, mà nghe chỉ là nghe; mũi vẫn ngửi mùi thơm hôi đều không khen chê hay đắm nhiễm; đó là ta biết cách làm chủ bản thân qua sáu giác quan để sống đời bình yên, hạnh phúc

Kế đến, chúng tôi dẫn kinh Lăng Nghiêm để làm niềm tin cho tất cả quý vị hiểu rõ ràng, thấu đáo, mà áp dụng hành trì, chuyển hoá. Tôn giả A-Nan hỏi Phật, “ bạch Thế Tôn, cái gì là căn bản của luân hồi sanh tử, cái gì là căn bản của Bồ Đề Niết Bàn?”. 

Khi Ngài hỏi câu này, đức Phật Thích-ca chưa trả lời, thì mười phương chư Phật khác miệng đồng lời nói rằng, “Này A-nan, cội gốc của căn bản phiền não, luân hồi sanh tử chính là sáu căn của ông. Cội gốc của Bồ Đề Niết Bàn cũng chính là sáu căn của ông”. Rõ ràng, không riêng gì đức Phật Thích Ca nói sáu căn là gốc của luân hồi sanh tử, sáu căn là gốc của Bồ Đề Niết Bàn, mà mười phương chư Phật khác đều miệng đồng lời phát ra những lời lẽ chân thật như thế. 

Do đó, chúng ta tu phải làm sao để chính mình dứt hết gốc luân hồi sanh tử, mà đạt được tự tại, giải thoát. Muốn vậy, ta phải làm sao? – phải không cho ý nghĩ dong duỗi, chạy Đông, chạy Tây, đó là gốc của sự tu; còn nếu ta vẫn bị phiền não kéo lôi, vẫn đi trong luân hồi sanh tử, thì sự tu đó không có công hiệu. Như vậy là uổng cơm của đàn na thí chủ. Muốn cho có công hiệu, không uổng cơm của đàn na tín thí, thì ta phải biết rõ sáu căn là cội gốc của sanh tử, đừng để cho nó dính, đừng để cho nó nhiễm. 

Có thế, chúng ta mới đúng là người tu cầu giải thoát sanh tử.
Sáu căn từ đâu mà ra? - Nó sẵn có nơi chúng ta, mắt-tai-mũi-lưỡi-thân-ý ở ngay thân mình chớ có xa đâu, chỉ cần đừng để dính nhiễm là ta đã khéo tu rồi. Nếu chúng ta ăn chay khắc khổ, tụng kinh rất nhiều, mà hễ ai động tới liền nổi sân, thấy cái gì đẹp thì ưa thích, tu như vậy biết chừng nào mới thành tựu đạo pháp

Mắt thấy sắc đẹp liền mê thích, đắm say; tai nghe tiếng không vừa ý liền sinh bực bội; như vậy là chưa gỡ được các căn dính với các trần, chưa gỡ được thì làm sao chúng ta giải thoát sanh tử; nên trên đường tu, chúng ta phải cố gắng, nỗ lực, phải làm sao gặp cảnh buồn vui, tốt xấu, mình vẫn an nhiên, tự tại. Đó mới là giải thoát thật sự. Nếu chỉ có hình thức, không giữ được sáu căn của mình, thì khó giải thoát. Kính mong rằng, tất cả chúng ta ai cũng ý thức việc tu hành của mình, bằng cách làm chủ bản thân ngay nơi thân-miệng-ý.

 

THIÊN ĐƯỜNG ĐỊA NGỤC CÓ THẬT KHÔNG?

 

Nhìn từ góc độ thực tế, chúng ta thấy cũng có địa ngục trần gian, ai phạm tội giết người thì bị xích lại nhốt vào ngục tối, nặng nhất là án tử hình. Tội nhân bị án này sẽ ăn không ngon, ngủ không yên, ngày đêm cứ phập phồng lo sợ không biết thần chết đến lúc nào để rước mình đi, khi nghe tiếng mở cửa là sợ điếng cả hồn vì ai cũng tham sống, sợ chết

Một ngày trôi qua là họ mừng một ngày vì vẫn nuôi hy vọng được sống để làm lại cuộc đời. Còn những án khác từ án chung thân đến án khổ sai từ một tháng cho đến hai chục năm và nhẹ nhất là hưởng án treo. Nhìn từ góc độ triết lý học Phật giáo, chúng ta thấy vô vàn, vô số địa ngục khác như các bệnh viện phòng cấp cứu, các nhà bếp của mỗi gia đình, các quán nhậu, các lò sát sanh, các chợ bán thịt cá, heo, bò, gà, vịt, các loài hải sản và cuối cùng là các nhà lưới bẫy đánh bắt. 

Mỗi một ngày, vô số các loài bị phanh da xẻ thịt để cung cấp phục vụ cho loài người. Nhìn ở góc độ địa ngục trần gian, chúng ta còn có thể hình dung địa ngục trong tâm thức mỗi người, đó là tâm toan tính hại người, hại vật hoặc bị phiền não chi phối gọi là địa ngục tâm thức. Người tu nếu đạt đến giác ngộ giải thoát thì tâm sẽ an nhiên, tự tại dù thân có bị hành hạ, đau nhức chi phối

Loài ngạ quỷ là loài quỷ đói thấy thức ăn mà ăn không được bởi nghiệp tham lam, ích kỷ, bỏn sẻn chiêu cảm. Nhìn từ góc độ cuộc đời, ta thấy ngạ quỷ cũng có trong loài người thiếu ăn, nghèo đói, thèm khát, ham muốn quá đáng mà không được nên khổ đau bức bách

Quỷ đói không phải có trong người nghèo khổ mà cả người giàu cótham vọng quá lớn, không được như ý muốn cũng vẫn phải chịu khổ như thường. 

Loài súc sinh của thời kỳ cổ đại được sống tự do, thoải mái trên những núi đồi thiên nhiên bạt ngàn, xanh tươi, màu mỡ, ít bị loài người sát hại. Một số loài súc sinh phải chịu ảnh hưởng phước báu của con người nên con vật nào được người thương thì cuộc sống có phần thoải mái, ngược lại thì bị người giết hại. 

Con người thuần hóa các loài vật để phục vụ cho mình như lạc đà, lừa, ngựa, trâu, bò để chuyên chở và cày bừa. Việc săn bắn, đánh bắt, giăng bẫy các loài thú tuy có nhưng không đáng kể và việc nuôi thú để làm thực phẩm cho con người cũng không có nhiều. 

Tuy nhiên, thế giới con người ngày nay quá đông nên nhu cầu đánh bắt loài vật không đủ sức cung phụng cho loài người, do đó con người phải tự nuôi thêm các loài gia cầm, súc vật theo công nghệ hiện đại để đủ đáp ứng nhu cầu thực phẩm. Ngoài ra, các loài vật cũng chịu sự ăn nuốt lẫn nhau, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ nên luôn sống trong khổ đau, lầm lạc.

Năm loài cùng nêu trên có hai loài là chư Thiên va thần Atula có phước sung mãn hơn người nhưng lo thụ hưởng nên không có điều kiện tu tập; ba loài dưới người thuộc đẳng cấp thấp hèn nên không có văn hóa, không có tình người; loài người do biết suy nghĩ, cảm nhận được sự khổ đau và hạnh phúc nên có điều kiện tư duy, quán chiếu, soi sáng mọi việc bằng nhận thức sáng suốt, có học hỏi, có tu tập, có văn minh, có hiểu biết, có yêu thương, có cảm thông, có bao dung, có độ lượng, có tha thứ và cùng san sẻ cho nhau nên loài ngườiđủ khả năng tu hành thành Phật

Đó là ưu điểm của loài người, năm loài kia không thể thành tựu Phật đạo, chính vì vậy đức Phật mới giáng sinh nơi loài người. Theo lời Phật dạy, thế gian này có năm loài cùng chung ở, hay gọi là sáu đường sống chết-luân hồi, có hai loài chúng ta thấy biết dễ dàng nhất là thế giới của loài ngườisúc sinh, bốn loài còn lại chúng ta có thể nhìn bằng trực giác hay tuệ giác của Phật mới biết rõ sự hiện hữu ngay nơi cuộc sống của mình.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1330)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1317)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1214)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1277)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1297)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1937)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1312)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1323)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1206)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1448)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1289)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1185)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1148)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1190)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1203)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1333)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1060)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1051)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1113)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1242)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1276)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1037)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1155)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1098)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1231)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1225)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1355)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1432)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1199)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1188)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1327)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1352)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1277)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1578)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1245)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1263)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1290)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1150)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1180)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1290)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1408)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1468)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1628)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1485)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1406)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1175)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1280)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1251)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1312)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1283)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant