Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường

30 Tháng Sáu 201512:06(Xem: 9785)
Con Đường
Con Đường
(The Path – Gil Fronsdal)

 Gil Fronsdal
Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến

Con Đường

Con Đường 

 

Khi đến tu viện, các nhà sư và các sư cô mới vào tu, thường hỏi vị sư trụ trì hướng dẫn cách thực hành Con Đường Giải Thoát. Nếu họ giữ lòng cương quyết về việc tìm kiếm Con Đường, vị sư trụ trì sẽ đưa họ đến một góc xa khuất nhất trong khu vườn của tu viện, nơi mà ít có người đặt chân đến. Ở đó, ông chỉ cho họ một lối đi hẹp, nơi mà con đường biến vào đám bụi rậm, hòa lẫn cùng cây cối. Ông nói với họ, "Quý vị sẽ tìm thấy Con Đường ở cuối lối đi nầy." Sau đó, vị sư trụ trì già quay đi, để lại những vị tu sĩ mới tự đi lấy một mình.

Bởi vì nhà sư trụ trì đã khơi dậy tính tò mò, nên những vị tu sĩ mới nầy bắt đầu ngay vào việc tìm kiếm Con Đường. Tuy nhiên, chẳng mấy chốc trên con đường mòn họ đi, xoay vòng qua đột ngột. Khi họ đi vòng theo khúc ngoẹo, họ liền phải đối mặt với một tấm gương rất lớn. Tấm gương đã ngăn chận ngay trên con đường họ đi. Những vị tu sĩ mới, đã bối rối khi nhìn thấy hình ảnh của chính họ trong gương. Có vài người tự hỏi, "Chẳng lẽ tôi đã đi nhầm đường." Tuy nhiên, không cần biết bao nhiêu lần, họ đã cố gắng đi ngược trở lại, hoặc họ đi trở lại từ đầu, sớm muộn gì họ cũng lại trông thấy tấm gương chận đường họ, một lần nữa.

Có một số người phỏng đoán là tấm gương được đặt trên con đường mòn, là để cho họ biết rằng Con Đường thật sự là ở trong tâm họ, chứ không phải là ở thế giới bên ngoài. Sự hiểu biết nầy đã làm cho một số người sợ hãi. Nên họ đã bỏ chạy. Có một số người lại cảm thấy không còn tỉnh táo, và tuyệt vọng. Có một số người lại cảm thấy nóng như lửa, vì tức giận. Thỉnh thoảng, có những người vì quá thất vọng, đã ném một hòn đá nặng vào hình ảnh của họ phản chiếu trong gương. Tuy nhiên, không ai có thể làm vỡ được tấm gương. Mỗi lần họ ném hòn đá vào gương, hòn đá văng ngược trở ra, đập trúng vào người họ. 

Nhưng, đã có một số tu sĩ vẫn còn đứng nán lại trước gương, chăm chú nhìn vào hình ảnh của chính họ. Những hình ảnh nầy làm cho họ như bị thôi miên, và cũng làm cho họ vui mừng. Vì quá vui mừng nên họ sinh ra lòng tự phụ, rồi họ tự nhận họ chính là Con Đường Phật Giáo vĩ đại. Và, dĩ nhiên, trên thực tế họ chỉ là những tu sĩ mới bắt đầu tu hành, đang cố gắng đi vòng chung quanh tấm gương. Họ tin rằng tấm gương đã chặn đường của họ, nên họ nhanh nhẹn tìm lối vượt qua bằng cách nhảy vào những bụi cây rậm rạp bao bọc chung quanh, nhưng vô ích, lúc họ chạy ra thì người họ đã dính đầy máu, bởi vì thân thể họ bị trầy xước, bởi vì gai đầy như là mảng nhện trong bụi rậm.

Thỉnh thoảng, có người lại trông thấy bà mẹ hoặc ông bố đang đứng cạnh họ, hình ảnh đó phản chiếu ở trong gương. Đây thật là một cảnh tượng kỳ lạ, cha mẹ của họ có thật sự đang đi bộ với họ hay không, chắc chắn trong đầu họ đang đặt một câu hỏi như thế. Vì họ biết, họ đang sống ở tu viện một mình. Vào những lúc khác, họ không nhìn thấy hình ảnh của họ trong gương, bởi vì họ đã bị che khuất vào đám đông.

Thế rồi, sau đó vào thời điểm thích hợp, các nhà sư và các sư cô cũng đã dừng lại, họ đã bình tâm, và họ ngắm nhìn lại hình ảnh của họ trong gương. Đối với nhiều người, đây là lần đầu tiên họ có cái nhìn kỹ càng, và sâu xa vào chính bản thân họ. Một số người kết luận rằng tấm gương, và hình ảnh trong gương chính là khúc cuối của Con Đường. Những người mà kết luận như thế, họ sẽ còn tiếp tục bị mắc kẹt bởi ý nghĩ nầy, rất lâu. Tuy nhiên, những người khác nhớ lại lời hướng dẫn của vị sư trụ trì về sự tìm kiếm Con Đường, nơi mà "ở cuối lối đi nầy". Khi các nhà sư và các sư cô nầy dừng lại, rồi nhìn kỹ càng, và sâu xa vào hình ảnh giống như họ trong gương, rồi một sự hiểu biết tuyệt vời đã hiện ra trong tâm trí họ: "Hình ảnh nầy là của tôi, nhưng tôi không phải là hình ảnh nầy." Rồi họ đưa tay ra, và nhẹ nhàng chạm tay vào gương, tấm gương nay đã chào thua họ. Giống y hệt như một cánh cửa lớn, lặng lẽ, mở toang ra, trước mặt họ là một phần của khu vườn đang rộng mở, rực rỡ, chan hòa dưới ánh nắng mặt trời, khu vườn nầy không giống bất cứ khu vườn nào, dù cho họ có tưởng tượng chăng nữa, lại đang có mặt ở trần gian. Và ở ngay nơi góc đường, phía xa kia, vị sư trụ trì già đang đứng chờ đợi họ, tay ông đang giữ hai cái xẻng.

The Path 

When arriving at the monastery new monks and nuns would commonly ask the abbot for instruction on the Path of practice. If they were insistent enough about finding the Path, the abbot would take them to a remote corner of the monastery garden where people seldom went. There he pointed them to a narrow walkway that disappeared into the bushes and trees. He told them, “You will find the Path at the end of this walkway.” Then the old abbot turned away, leaving each novice to walk on alone.

Intrigued, the new monastics set off in search of the Path. Before long, however, the trail took a sharp turn. When they rounded the corner they came face to face with a very large mirror. It blocked their way. Seeing their own image reflected in the mirror confused the new monastics. Some wondered, “Maybe I have taken the wrong path.” Still, no matter how many times they tried to retrace their steps or start over, sooner or later they found the mirror blocking their way again.

More than a few assumed the mirror was placed on the trail to show them that the real Path was in them, not in the external world. This understanding frightened some. They ran away. Others collapsed in hopelessness. Some simmered in anger. Occasionally, someone would become so upset that they would hurl a heavy rock at their reflection. The mirror, however, was impervious. Each time they threw a rock at it the stone bounced back and struck them instead.

There were some monastics among them who lingered in front of the mirror, each gazing at his or her own likeness. It mesmerized and delighted them. They spilled over with the conceit of themselves somehow being the great Buddhist Path. And, of course, there were those novices who simply tried to walk around the mirror. Believing it blocked their way, they plunged headlong into the surrounding thicket of bushes only to emerge scratched and bloodied by an impenetrable web of thorns and undergrowth.

From time to time one of them would see his or her mother or father standing next to them in their reflection. This was an eerie sight, as there was no doubt in their minds about whether their parents were walking with them or not. They knew they were alone. At other times, their reflected image was obscured by crowds of people.

In due course some of the monks and nuns finally calmed down enough to stop and look into their reflection. For many it was the first time they ever really looked deeply into themselves. More than a few concluded that the mirror and the reflection were the end of the Path. Those who did ended up stuck for a very long time. The others, however, remembered the abbot’s directive about finding the Path at the “end of this walkway.” When these monks and nuns stopped and looked deeply into their likeness in the mirror, a wonderful realization arose in their minds instead: “The reflection is of me, but I am not the reflection.” Then when they reached out and lightly touched the mirror, it gave way. Like a great door silently swinging open, it revealed a bright, expansive, sunlit section of garden unlike anything they could ever have imagined existed. Just beyond, at the edge of the path, stood the old abbot holding two shovels.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 770)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1096)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1336)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 821)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 979)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 919)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1002)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1003)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1141)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1604)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1247)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1103)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 949)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1262)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1365)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1320)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1465)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1197)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant