Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Giải Thoát Trong Đạo Phật

01 Tháng Tám 201514:53(Xem: 9338)
Ý Nghĩa Giải Thoát Trong Đạo Phật

Ý NGHĨA GIẢI THOÁT TRONG ĐẠO PHẬT

Hoàng Nguyên

y-nghia-giai-thoat

Sống, theo tính chất duyên sinh, là sống với, liên hệ với; không ai sống mà không có mối tương quan với người khác. Bản chất của xã hội là các mối quan hệ. Một người sống trong xã hội có rất nhiều mối quan hệ, như quan hệ cha con, anh em, vợ chồng, bạn bè, đồng nghiệp, dòng họ, thôn xóm… Nói chung, trong tất cả các mối quan hệ giữa con người với nhau, không phải lúc nào ta cũng nhận được sự ủng hộ của tất cả mọi người. Một người hoàn thiện về nhân cách và đạo đức như Đức Phật cũng gặp rất nhiều người chống đối lên tiếng chỉ trích, nhục mạ và vu khống Ngài với những lời lẽ tầm thường hay bằng những luận điệu triết học; như du sĩ Magandiya cho rằng khi Đức Phật chủ trương thu thúc và chế ngự lục căn không để lục trần lôi kéo khiến tâm bị dao động và đắm nhiễm thì Ngài là người phá hoại sự sống1; hoặc như du sĩ Dighatapassi của nhóm ngoại đạo Nigantha (Ni-kiền- tử) cho rằng Đức Phật chỉ là nhà huyễn thuật chuyên sử dụng phép lạ để lôi cuốn các đệ tử của các giáo đoàn khác2, chưa kể những âm mưu đen tối nhằm hạ thấp uy tíndanh dự của Đức Phật do các giáo đoàn khác chủ trương.

Vì vậy, sống trên đời chúng ta không mong mọi người đều thuận theo ý mình, điều quan trọng là chúng tathái độ như thế nào với những người hành xử không phải với mình. Ta buông xả tự tại hay phản ứng giận dữ. Buông xả tự tại là chất liệu của giải thoát, phản ứng giận dữđiều kiện của buộc ràng. Giải thoát, vì vậy không có nghĩa là ám chỉ đến một thế giới khác hay ám chỉ một đời sống sau khi chết, mà chính trong thế giới này, kiếp sống này ta có tinh thần tự do tự tại trong mọi hoàn cảnh, mọi đối đãi của con người, thì đó là ý nghĩa giải thoát trong đạo Phật.

Nhiều người nghĩ giải thoát là phải cắt đứt mọi mối quan hệ, vào ở ẩn trong rừng núi hay sống biệt lập trong các am thất. Đó không phải là ý nghĩa tích cực của giải thoát. Ý nghĩa tích cực của giải thoát là sống ràng buộc giữa các mối quan hệ nhưng ta có tự dotự tại. Ví dụ người hàng xóm hành xử không phải với mình, nhưng không phải vì vậy mà ta trở nên bực tức hay khó chịu với người đó. Trạng thái không bực tức hay không khó chịu là tiêu chuẩn của tự do, tự tạigiải thoát. Cho nên ai đó đã nói rất đúng bản chất giải thoát của đạo Phật rằng: “Tự do là ung dung trong ràng buộc. Hạnh phúctự tại giữa khổ đau”.

Thông thường, khi gặp cảnh bất như ý ta có xu hướng tìm cách tránh né. Đó là vì ta không đủ sức tự tại để đối diện. Tránh né không phải là cách để có hạnh phúc; vì ở đâu, lúc nào cũng có những điều bất như ý xảy ra với mình. Do đó, hãy tâm niệm rằng, ngay bây giờ và ở đây nếu không thể có hạnh phúc, thì không hy vọng ở một nơi khác, thời gian khác ta có thể có hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực là đối diện với những khó khăn và vượt qua chúng bằng những đức tính kiên nhẫn, tự chế và trầm tĩnh. Ba đức tính này chính là chất liệu của tự tạigiải thoát. Chúng ta hãy quán chiếu sức mạnh tự tại của Đức Phật qua hình ảnh sau đây:

“Một hôm, Đức Phật cùng giáo đoàn đến xứ Kosambi lúc ấy đang ở dưới sự cai trị của vua Udena. Khi được tin ấy, một trong những vị thứ phi được sủng ái của vua là nàng Magandiya vốn có hiềm với Đức Phật nên bà ta xúi giục những kẻ vô lại đi theo sau giáo đoàn của Đức Phậtmắng nhiếc Ngài bằng những lời lẽ rất nặng nề. Tôn giả A-nan nghe những lời chửi bới quá thậm tệ, không chịu nổi, bạch Phật:

– Bạch Thế Tôn! Dân ở đây mắng nhiếc và nhục mạ chúng ta. Chúng ta hãy đi nơi khác!

– Ta sẽ đi đâu, A-nan?

– Đến thành phố khác, thưa Thế Tôn.

– Nếu ở đó người ta cũng chửi mình thì sẽ đi đâu, A-nan?

– Sẽ đi chỗ khác nữa, thưa Thế Tôn.

– Nếu ở đó người ta cũng chửi mình nữa thì sao?

Chúng ta lại đi đến chỗ khác, thưa Thế Tôn.

– A-nan đừng nói thế. Ở đâu có khó khăn thì giải quyết ở đó. Ổn thỏa rồi mới được phép đi nơi khác. Nhưng ai chửi ông, A-nan?

– Bạch Thế Tôn! Mọi người đều mắng nhiếc chúng ta, bọn côn đồ và cả đám dân kia.

– A-nan, ta như con voi xông ra trận. Bổn phận của voi xông trận là hứng chịu những mũi tên từ bốn phía. Đúng thế, bổn phận của ta là kham nhẫn những lời nói độc ác”.

Tiếp đó, Đức Phật thuyết pháp bằng ba bài Pháp cú được chép trong phẩm Voi, nói lên sự kham nhẫn của bậc giác ngộ. Bài pháp tác động đến đám đông tập trung quanh Ngài và giáo đoàn của Ngài. Rồi Đức Phật khuyên A-nan.

– A-nan, đừng phiền muộn. Những người này chỉ mắng nhiếc ông trong bảy ngày, đến ngày thứ tám họ sẽ yên lặng. Khó khăn đến với Phật không kéo dài quá bảy ngày3.

Quả thật Đức Phật rất tự tại, sở dĩ Ngài bước đi thong dong giữa muôn ngàn lời mắng chửi như vậy là vì Ngài có tự tại đối với những điều không ưa thích. Chính sự tự tại trong tâm trí khiến cho đôi chân của Ngài trở nên nhẹ nhàng, khuôn mặt rạng rỡ và ánh mắt từ bi. Chúng ta không được tự tại nên khi gặp cảnh bất như ý thì sanh lòng giận dữ hay bực phiền.

Tu tập là nuôi lớn sức mạnh tự tại. Tu tập càng vững chãi thì sức tự tại càng lớn. Ví dụ trước đây mình chưa học tập và hành trì lời Phật dạy, trong các mối quan hệ, ta không hài lòng với người này, bất mãn với người kia; nhưng khi đã học tập và hành trì lời Phật dạy rồi thì không còn khó chịu với người này bất mãn với người kia nữa, dù đôi lúc người này hay người kia đối xử không phải với mình. Hoặc trước đây ta rất căm ghét những người nói xấu mình, nhưng khi đã tu học Phật pháp rồi thì không còn căm ghét những người đó nữa, dù họ vẫn nói xấu mình. Không khó chịu, không bất mãn, không căm ghét là những yếu tính của tự tại. Phật pháp nhiệm mầu ở chỗ giúp ta có cuộc sống an vui tự tại chứ không phải giúp ta cầu khấn để đạt được ham muốn này ham muốn nọ.

Giải thoát không những có tự do với những điều bất như ý mà còn tự tại trước những điều ưa thích nữa. Đức Phật nói rằng phương pháp đưa đến an ổn giải thoát chính là cắt đứt mối ràng buộc của các pháp khả ái, khả lạc. Ngài nói: “Này các Tỳ-kheo, có những sắc do mắt nhận biết khả lạc, khả ái, liên hệ đến dục, hấp dẫn. Những sắc ấy đã được Như Lai đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây ta la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy Như Lai được gọi là vị đã được an ổn, khỏi các khổ ách”4. Đức Phật cũng dạy như vậy đối với thanh, hương, vị, xúc. Nói chung là các pháp khả ái.

Cắt dứt các pháp khả ái, khả lạc, liên hệ đến dục, hấp dẫn không có nghĩa là hủy diệt các pháp đó, mà chỉ là không để chúng chi phốilôi cuốn mình.

Chúng ta phần lớn bị ràng buộc vào hai trạng thái tâm lý, hoặc là thích thú với những pháp khả ái hoặc là bực phiền với những pháp không khả ái. Sở dĩ như vậy là vì thiếu tuệ quán. Tuệ quántư duy, quán chiếu mọi sự vật hiện tượng trên cuộc đời này theo lời Phật dạy, nghĩa là xem các pháp hiện hữu đều do duyên sinh, không thật có, mang bản chất vô thường, khổ và vô ngã. Nhờ quán chiếu như vậy nên khi gặp các pháp khả ái, khả hỷ ta không sanh tâm thích thú hay tham đắm, cũng như khi đối diện với các pháp không khả ái, không khả hỷ, ta không khởi tâm giận dữ hay bực phiền, vì biết chúng chỉ là giả hiện, không thật có, như giấc mộng, như bong bóng nước, như tia chớp, như giọt sương…

Tư duyquán chiếu như vậy gọi là tuệ giải thoát. Từ tuệ giải thoát đưa đến tâm giải thoát, nghĩa là từ tư duy dẫn đến thái độ sống. Tư duy tích cực thì thái độ sống tích cực, tư duy tiêu cực thì thái độ sống tiêu cực. Ở đây tư duy theo lời Phật sẽ đưa đến thái độ sống buông xã, tự tại, an ổngiải thoát. Trái lại, không tư duy theo lời Phật sẽ dẫn đến thái độ sống bám víu, vị kỷ, ngã chấp… Bàng bạc khắp trong kinh điển Nikaya và A-hàm, Đức Phật dạy các Tỳ-kheo tu tập theo lối tư duy sau đây:

– Này các Tỳ-kheo, sắc là thường hay vô thường?

– Bạch Thế Tôn, là vô thường.

Vô thường là khổ hay không phải khổ?

– Bạch Thế Tôn là khổ và biến dịch.

Vậy thì hãy học: Tất cả những cái ấy chẳng phải là ta, chẳng phải là sở hữu của ta.

Nhờ tu tập theo lối tư duy như vậy mà tâm ta trở nên nhẹ nhàng, không bám chấp, không vị kỷ. Sống an lạc giữa cuộc đời được mất, thành bại. Có thể nói “Cái này không phải là tôi, không phải tự ngã của tôi, không phải sở hữu của tôi” là câu thần chú diệt mọi tham chấp, ích kỷvị ngã. Mỗi khi phiền não khởi lên từ sự chấp tôi và cái của tôi chúng ta hãy niệm câu “thần chú” đó. Ví dụ khi ai đó mắng mình là đồ ngu dốt, ta niệm, “ngu dốt không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi”, thì tự nhiên lòng sẽ trở nên nhẹ nhàng. Khi niệm như vậy mà ta thoát ra khỏi cơn bực tức, khó chịu thì đó chính là sự giải thoát.

Nếu ta không thoát ra được cơn giận dữ, bực tức khi ai đó xúc phạm mình thì hệ lụy khổ đau khôn lường.

Hai chị em cô Loan vừa đi vừa nói chuyện bên lề đường thì có hai cô gái đang ngồi uống cà-phê trong quán nhại tiếng. Thế là cả hai bên lời qua tiếng lại rồi nhảy vào ẩu đả nhau. Câu chuyện không dừng lại ở đấy. Chồng cô Loan, anh Đăng, nghe tin vợ mình bị đánh, vội cùng người em trai tên Đang chạy đến can thiệp, không ngờ phe cánh của hai cô gái uống cà phê rất đông, nên hai anh em anh Đăng và Đang bị nhóm này rượt đuổi đánh đến mất mạng và cô Loan thì bị một nhát dao đâm thủng lá gan. (Theo báo Công An).

Khi bị người khác nhại tiếng, nếu cô Loan có tu tập và niệm câu “thần chú” “tiếng này không phải là tôi, không phải là sở hữu của tôi” thì đầu óc được tự do và đôi chân thong dong bước đi, không bị cơn giận dữ kéo lại mắng chửi đáp trả, thì câu chuyện tang thương khổ lụy đó không bao giờ có mặt.

Cũng nhờ tu tập theo lối tư duy như trên mà Tôn giả Upasena khi bị rắn độc cắn sắp mạng chung không biểu lộ sự sợ hãi hay đau khổthân thể không biến sắc, khiến cho Tôn giả Sariputta (Xá-lợi-phất) ngạc nhiên hỏi vì sao đạt được trạng thái như vậy. Tôn giả Upasena nói rằng ngài luôn tu tập sắc, thọ, tưởng, hành và thức không phải là tôi, không phải là tự ngã của tôi, không phải là sở hữu của tôi nên tâm được tự tạithân thể không đổi khác, các căn không biến hoại5. Đây là tiến trình tu tập từ tuệ giải thoát đưa đến tâm giải thoát, từ tâm giải thoát dẫn đến tướng giải thoát.

Một người tu hành đúng pháp thì sự giải thoát bộc lộ ra bên ngoài khiến cho ai nhìn vào cũng thấy dễ mến, dễ ưa. Trái lại, người không tu hoặc tu không đúng pháp thì tâm tư sầu muộn, mặt mày héo úa ủ dột, người khác tiếp xúc cảm thấy nặng nề. Cho nên ai tu hay không chỉ cần nhìn bên ngoài là biết. Người nào luôn thể hiện sự tươi vui hoan hỉ, ai tiếp xúc cũng thấy nhẹ nhàng, hài lòng, thì biết người đó có tu. Người nào hay cau có khó chịu, chẳng ai ưa gần gũi thì biết người đó không tu.

Đức Phật ngoài vẻ đẹp tự nhiên, còn có vẻ đẹp xuất phát từ nội tâm giải thoát. Chính vì vậyđạo sĩ Upaka lần đầu gặp Đức Phật đã thốt lên những lời ngạc nhiên trước vẻ đẹp giải thoát của Ngài rằng thầy của Ngài là ai và Ngài tu hành theo đạo nào mà ngũ quan của Ngài thật trong sáng, nước da của Ngài thật trong trẻo và tươi tắn.

 Chúng ta nhớ lại sự kiện Đức Phật sau khi thành đạo trở lại vườn Nai để hóa độ cho năm anh em ông Kiều- trần-như. Thấy Đức Phật từ xa, năm người bàn nhau sẽ không đón tiếp Ngài với niềm tôn kính như xưa: “Sa- môn Gotama đang đi đến chúng ta, Sa-môn Gotama đã từ bỏ pháp tinh tấn, Sa-môn Gotama đã nghiêng về pháp lợi dưỡng. Ông ấy không đáng cho chúng ta kính lễ; không đáng cho chúng ta đứng dậy chào, tiếp rước y bát hay hầu hạ như trước kia. Khi ông ấy đến, chúng ta hãy mặc kệ ông ấy”6.

Thế nhưng khi Đức Phật lại gần, từ dáng đi thong dong tự tại, vẻ trang nghiêmoai nghi lộ rõ ra bên ngoài, năm anh em ông Kiều-trần-như cảm nhận được sự giải thoát nơi con người Đức Phật nên không ai bảo ai, mỗi người mỗi việc, người thì rước bát, người thì dọn chỗ ngồi, người thì đi lấy nước cho Ngài rửa chân, nghinh tiếp Ngài một cách thành kính.

Giải thoát, tóm lại, là không bị ràng buộc vào bất kỳ loại cảm xúc nào. Đối với các pháp khả ái, ta thoát ra khỏi sự thích thú, đối với các pháp không khả ái, ta thoát ra khỏi sự bực tức, khó chịu. Đó mới là ý nghĩa giải thoát trong đạo Phật.    (Văn Hóa Phật Giáo

Chú thích:

  1. Kinh Magandiya, Trung Bộ (Kinh số 75).
  2. Kinh Upali, Trung bộ (Kinh số 56).
  3. Theo Sớ giải kinh Pháp Cú, phẩm Voi.
  4. Kinh Tương Ưng Bộ IV, trang 149.
  5. 5. Theo kinh Ưu-na-tiên-na, kinh số 252, Tạp A-hàm quyển
  6. Theo Đức Phật và 45 năm hoằng pháp độ sinhtập II, Tỳ- khưu Chánh Minh, NXB. Tôn Giáo, 2009
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 14059)
Một chàng trai bị lạc giữa sa mạc rộng lớn. Anh mệt lả và khát khô cổ, sẵn sàng đánh đổi bất cứ cái gì chỉ để lấy một ngụm nước mát.
(Xem: 12329)
Thuyết pháp độ sinh suốt 49 năm, bỗng một ngày nhìn lại, thấy mình chưa nói một lời. Bất thuyết thị Phật thuyết! Chung thân ngôn, vị thường ngôn!
(Xem: 12908)
Nhiều năm thăng trầm trong cuộc đời, phần lớn chúng ta đều ý thức rằng những hấp dẫn lực bên ngoài sớm muộn gì cũng sẽ vỡ tan, chỉ có một cõi lòng bình anhạnh phúc...
(Xem: 16554)
Một người thanh niên đang ngồi trên một tảng đá gần nhà vào một ngày nọ. Một nhóm những người thông tuệ từ ngôi làng của anh ta đi ngang qua...
(Xem: 28592)
Một con cá nhỏ bơi lội tung tăng, thả nổi và ngoi lên mặt nước ngắm bầu trời xanh. Một lượn sóng ùa tới, nó đùa giỡn ngụp lặn với sóng...
(Xem: 19254)
Có một vị nam cư sĩ mỗi ngày thường hái hoa tươi trong vườn nhà mình đem đến chùa chí thành dâng cúng Phật. Một hôm, khi đem hoa đến điện Phật...
(Xem: 14873)
Con tin có Phật trên đời Phật luôn hiện hữu không rời chúng sanh Nhìn vào sự việc chung quanh Thật là kỳ diệu phải nhanh tu hành
(Xem: 11277)
Có một sự nhất quán, xuyên suốt trong lời dạy hướng dẫn kỹ năng thiền định của đức Phật, dù là Tứ niệm xứ (Satipatthàna) và Thân hành niệm (Kàyagatàsati)...
(Xem: 13543)
Mỗi buổi sáng ngày Tết nguyên đán, có một vị khách viễn xứ về thăm quê nhà. Vị khách đã đến chùa Kim Liên (Nghi Tàm, Hà Nội) lễ Phật, vãn cảnh chùa.
(Xem: 13694)
Có một người trung niên sau khi xuất gia trở thành một vị cao tăng, trụ trì một tu viện cách rất xa gia đình. Rất nhiều người ngưỡng mộ danh đức của ngài...
(Xem: 12785)
Thuở xa xưa có một chàng trai con của một vị Bà la môn (giai cấp "tu sĩ" cao nhất ở Ấn Độ) sống dưới triều đại vua Pasenadi, thuộc vương quốc Kosala.
(Xem: 19740)
Hạnh phúc chân chính liên quan đến tình cảm và trí huệ nhiều hơn. Hạnh phúc lệ thuộc vào lạc thú vật chất không vững bền, nay có mai không.
(Xem: 14773)
Ba chú tiểu dáo dác nhìn bốn bề xao động trong cặp mắt nai ngơ ngác. Dọc theo lề đường, ánh đèn xanh đỏ lập lòe về đêm...
(Xem: 13168)
Bóng con bé chạy dài theo bóng nắng. Thoắt cái nó đã mất hút sau đám ô môi rậm rạp. Vị thầy chỉ đi theo một đoạn. Nhìn những dấu chân nhỏ nhắn...
(Xem: 13803)
Rõ ràng, ở đời không có cái gì là toàn thiện, hoàn mỹ tuyệt đối cả. Được cái này thì mất cái kia là đặc tính chung nhất của vạn sự vạn vật.
(Xem: 11870)
Một người phạm hạnh thì giống như một viên bảo ngọc, như một tấm pha lê sáng trong, dù có đem bùn đen bôi lên cũng không thể nào làm dơ uế được.
(Xem: 14307)
Khi gặp mình mua 1000 đồng, trong bụng bà ấy được vui một chút, đó cũng là cách mình làm phước. Mình đem vui lại cho người khác, mình cũng sẽ được vui lây...
(Xem: 26771)
Ngày nay, tình yêu đã được hằng kho, hằng kho sách vở, báo chí, phim ảnh ca tụng như là một thứ “linh thiêng, thần thánh”, một nguồn hạnh phúc, hoan lạc đẹp nhất của kiếp người.
(Xem: 14026)
Nắng mùa hè ấm áp, giúp cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ. Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn.
(Xem: 18510)
Tùy duyên trong cuộc sống là sống mà không câu nệchấp trước bất cứ một sự việc nào dù đó là thuận hay nghịch trong cuộc sống.
(Xem: 13622)
Trong thời gian yên tu, một hôm bỗng dưng chúng tôi cảm thông được nụ cười nhẹ nhàng hiện trên môi Đức Phật và nụ cười tạm biệt của các thiền sư...
(Xem: 15592)
Bạn sẽ làm gì khi cuộc sống trao cho bạn những phiền toái không thể ngờ? Khi những dự tính không theo ý muốn? Bạn có chấp nhận nó...
(Xem: 16274)
Có phải là chúng ta cảm thấy sung sướng hạnh phúc khi ngày nay dù trên đất Mỹ, con cái chúng ta sống gần gũi trong một tiểu bang...
(Xem: 13553)
Ngày nay những gì chúng ta cần là sự chuyển hóa một cách căn bản trong nhận thức của chúng ta về con người là gì. Chúng ta phải từ bỏ ách nặng...
(Xem: 13422)
Trời đã về khuya. Trăng lên cao sáng vằng vặc trên bầu trời đen thẳm. Triều lẳng lặng bước vào bên trong phòng vẽ chưa đóng cửa...
(Xem: 18190)
Hắn cúp máy rồi, tôi cứ nằm yên đó ngó lên bức tranh mực Tàu trên vách. Ở đó có con thuyền hờ hững trên sông, chẳng biết sắp vào bờ...
(Xem: 12745)
Tịnh thất nằm bên triền núi, quanh năm vắng lặng, ít người lui tới. Cái quang cảnh vắng vẻ heo hút tạo cảm giác rờn rợn khi tôi đặt chân đến.
(Xem: 12436)
Năm đầu tiên đặt chân đến Mỹ, Lễ Tạ Ơn hoàn toàn không có một chút ý nghĩa gì với tôi cả, tôi chỉ vui vì ngày hôm đó được nghỉ làm...
(Xem: 12071)
Đã có người hỏi tôi câu hỏi này mà tôi không trả lời được: "Nói dân tộc Việt Nam có bốn nghìn năm văn hiến. Nhưng có thấy cái gì đâu!"
(Xem: 13280)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
(Xem: 14139)
Sài gòn không có mùa thu để nhuộm thêm sắc vàng cho những chiếc lá còn lay lắt trên cành. SàiGòn cũng đâu có bầu trời thu trong và mát...
(Xem: 15455)
Mấy hôm nay, trời bắt đầu sang thu, thời tiết đã dần dần dịu lại, không khí mỗi lúc trở nên mát mẻ. Chỉ còn độ mươi ngày nữa thôi là đến ngày Lễ Vu Lan rồi.
(Xem: 17589)
Thử hình dung vào một ngày giữa năm Canh Dần 1920, Người đau nặng và trời nổi gió. Bên ngoài sấm rền, còn bên gối thì Người lấy ngón tay gõ nhịp...
(Xem: 13110)
Muốn hạnh phúc, mục tiêu chính của chúng ta là phải chiến đấu với những cảm xúc khổ đau này. Chúng ta chỉ có thể đạt được hạnh phúc khi chúng ta quyết tâmnỗ lực tu tập...
(Xem: 11985)
Trên con phố đìu hiu, buông rơi tình, mỏi mòn thả dài xuống làn sợi tóc sương ngon ngọt, thấm da buốt thịt, vì áo xanh tơ trời đã mòn mỏng theo năm tháng, không đủ để chở qua cơn giá lạnh...
(Xem: 13981)
Hành tung của chư vị Bồ Tát, mang nhục thân thị hiện cõi Ta bà, hóa độ chúng sanh, bằng cái nhìn bình thường của con người không thể nào biết được.
(Xem: 13628)
Vanga sinh ngày 31/1/1911, mất ngày 11/8/1996. Bà sống ẩn dật cả đời ở vùng hẻo lánh Kozhuth thuộc Petrich, Bungary. Vanga mất thị lực năm 12 tuổi...
(Xem: 13521)
Một ngày mùa đông năm Dân quốc thứ 25, trên tòa giảng trong chùa Cổ Lâm tại Nam Kinh, Hòa thượng Tuệ Học đang giảng kinh “Bát Đại Nhân Giác”.
(Xem: 14254)
Trên bàn thờ Phật hương tàn đã lâu. Hai cây nến đỏ cháy cũng gần hết. Ánh sáng lung linh mờ ảo trên mặt tượng Phật. Ẩn hiện nét cười hiền, siêu thoát.
(Xem: 16070)
Bố mẹ đi làm về. Bé gái miệng rất tươi: "Con chào bố mẹ ạ. Bố mẹ chào ông đi chứ?" Bố mẹ của bé lẳng lặng đi lên lầu.
(Xem: 20724)
Ngày còn nhỏ, tôi thường nghe dì dượng kể về chuyện tình của họ. Một tình yêu thật đẹp được tô điểm bằng những tình khúc của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn...
(Xem: 21915)
Tiến trình lịch nghiệm của con người được trải dài theo từng tiếng khóc, tiếng cười tự thủa nằm nôi. Ai trong chúng ta không có tiếng khóc đầu đời, nụ cười măng sữa?
(Xem: 12616)
MỤC NGƯU ĐỔ là tranh chăn trâu. Tranh ra đời tự triều đại nào, dưới ngọn bút lông nào, khó mà tra cứu cho đích xác được.
(Xem: 13406)
Tôi sinh ra dưới một mái chùa. Nghe kể rằng sư phụ tôi khi ấy còn trẻ, một hôm đi ngang bỗng động tâm hỏi: "Mô Phật, sao sau chùa lại phơi tã lót?"
(Xem: 22833)
Thơ thiền là một bộ phận của thơ nói chung. Thơ, dù là thơ thiền, thì cũng không thể đi ra ngoài nguyên lý của nó. Ở Trung Quốc, nguyên lý tối cổ của thơ...
(Xem: 13004)
Tôi sinh ra thì thế chiến II đang hồi kết thúc. Lớn lên chút nữa, khi biết nghe và hiểu, những chuyện vãn người lớn về việc đánh nhau đâu đó...
(Xem: 29784)
Văn hóa học là một ngành khoa học nghiên cứu về văn hóa còn khá non trẻ so với các ngành khoa học khác như triết học, toán học, xã hội học, nhân chủng học...
(Xem: 13193)
Ngày xửa ngày xưa có một cây táo rất to. Một cậu bé rất thích đến chơi với cây táo hàng ngày. Cậu bé rất yêu cây táo...
(Xem: 12963)
Tiếng sẻ gọi nhau trong nắng mai thật quá hiếm giữa những âm thanh rộn ràng khác. Trước mặt nhà của nhà thơ Quách Tấn chúng ta...
(Xem: 12711)
Những ngọn sóng cứ đập vào vách đá, hôm kia, hôm qua, rồi hôm nay cũng vậy. Mà hình như chưa bao giờ ngừng nghỉ, những con sóng cứ lô xô...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant