Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Học Và Nghệ Thuật: Từ Thiền Tông Tới Tịnh Độ

03 Tháng Tám 201515:35(Xem: 12955)
Phật Học Và Nghệ Thuật: Từ Thiền Tông Tới Tịnh Độ

PHẬT HỌC và NGHỆ THUẬT:
TỪ THIỀN TÔNG TỚI TỊNH ĐỘ

Nguyên Giác

 
Phật Học Và Nghệ Thuật Từ Thiền Tông Tới Tịnh Độ

Bài này để nói thêm về tương quan giữa Phật học và nghệ thuật – các bộ môn như âm nhạc, thi ca, hội hoạ, tiểu thuyết, kịch, phim …

Một số bạn thắc mắc rằng tại sao Đức Phật bảo phải tránh xa âm nhạc, trong khi nhiều Thầy hiện nay vẫn sử dụng âm nhạc, hay soạn kịch, hay làm phim…

HT Thích Trí Thủ viết trong Bát Quan Trai Giới, rằng trong những ngày thọ Bát Quan Trai Giới, giới tử phải đọc và thọ trì câu: “Như chư Phật suốt đời không ca múa xướng hát và không đi xem nghe, chúng con... xin một ngày một đêm không ca múa xướng hát và không đi xem nghe.” (1)

Đúng là có như thế. Nơi đây, tôi chỉ có thể nói ý riêng, không có thẩm quyền gì hết: Đức Phật chỉ muốn chúng ta xa lìa tham sân si. Nếu có bất kỳ pháp nào trong trần gian, không riêng âm nhạc, có thể làm tâm chúng ta khởi lên tham sân si, Đức Phật đều dặn phải tránh xa. Nhưng nếu tất cả các hình thức nghệ thuật nào có thể làm chúng ta tránh bớt, hay dứt bỏ được tham sân si, hẳn là Đức Phật sẽ cho sử dụng.

Như mới vài tháng trước, có một cuộc tranh luận về vấn đề âm nhạc, khi một trưởng lão hòa thượng nghe một ca khúc được Phật tử hát cúng dường. Trong phần góp ý, tôi đã bênh vực vị hòa thượng và người hát cúng dường, trích như sau:

“…Tôi xin góp ý tự tâm mình, một người hoạt động trong giới văn nghệ sĩ nhiều thập niên. Tôi nghĩ rằng, Đức Phật chế giới là giúp chúng ta phòng hộ 6 căn. Đức Phật không dị ứng gì với đàn guitar hay đàn piano, không dị ứng với nhạc quan họ hay nhạc rock, và ngài cốt tủy là khuyên chúng ta nên nghe nhạc như một pháp bình thường trong thế gian. Thậm chí, khi chư Thiên hát bản tình ca, ngài cũng hoan hỷ vì ngài luôn luôn ở trong đại định (và ngài muốn chúng ta như thế, bước đầu là khuyên chớ nghe hay bớt nghe nhạc). Và toàn bộ giới luật là phòng hộ 6 căn, chứ không riêng phòng hộ lỗ tai. Bởi vì:

Tai: ưa nhạc du dương, ưa ca ngâm, ưa nịnh hót, ghét lời nói thẳng...

Mắt: ưa màu sắc rực rõ, áo đẹp, nhan sắc, tranh đẹp, thư pháp đẹp... (Nếu tôi điêu khắc tượng Phật gỗ xù xì thô nhám là bị quý Thầy rầy liền, vì chúng sinh ưa nhìn tượng đẹp).

Mũi: ưa mùi thơm, hương trầm... (Bởi vậy, cúng nhang trầm không thơm là sẽ có quý Thầy buồn, nói là tâm không nghiêm trang, thiếu cẩn trọng).

Lưỡi: ưa ăn ngon... (Hãy hình dung, bà bếp trong chùa mà nấu ăn dở là được mời về nhà liền).

Thân: ưa nằm giường đệm... (Bây giờ không thấy giường tre, giường gỗ tạp).

Ý: ưa bài thơ hay, ưa bài luận thuyết giỏi, ưa lý luận phức tạp... (Làm thơ dở, bảo đảm là bị chúng sinh quở liền).

Nếu cấm âm nhạc, xin hãy yêu cầu các chùa phải nấu ăn dở, hãy yêu cầu tượng Phật phải xù xì gỗ tạp, hãy yêu cầu tranh và thư pháp phải xấu, hãy yêu cầu thơ phải dở, và vân vân...

Như vậy, cốt tủy chỉ có nghĩa là như Kinh Kim Cang nói: không trụ tâm vào đâu hết, dù là có âm nhạc hay không (vô sở trụ).

Bởi vì, tâm dính (trụ) vào tịch lặng cũng nguy hiểm nhiều y hệt như mê vào âm nhạc.

Tại sao mắt chỉ ưa nhìn tượng Phật đẹp, mà tai dị ứng với ca khúc cúng dường Tam Bảo...” (2)

Xin ghi thêm, bài viết "Âm Nhạc Trong Kinh Phật" đã đề nghị một giải thích như sau:

"...chúng ta có thể tin rằng, với tâm hồn nhạy cảmtrí tuệ vi diệu, Đức Phật không thực sự cứng nhắc xem âm nhạc như một trở ngại, mà có khi còn là một phương tiện hoẳng pháp. Vì nói cho cùng, khi đọc Kinh Phật, chúng ta nhiều chỗ thấy nhạc trời được trình tấu để cúng dường, để tán thán công đức... Khi Đức Phật nhập Niết Bàn, chư Thiên đã tới tụ hội, tấu nhạc, hương hoa cúng dường. Nếu Đức Phật xem âm nhạctrở lực, tất nhiên các kinh sẽ không muốn ghi lại các chi tiết đó." (3)

Nhiều thập niên trước, tôi đã hỏi thầy bổn sư về những khó khăn giữ giới trong đời, Thầy Tịch Chiếu nói, và tôi tin chắc thật vào lời Thầy dạy: “Thấy Tánh rồi làm gì cũng đúng, chưa Thấy Tánh làm gì cũng sai.” (4)

*

Có những cơ duyên hình thành có vẻ như tiền định, thí dụ như một tác phẩm nghệ thuật – như nhạc, thơ, truyện, kịch, phim… Nhà Phật cũng nói, các pháp do duyên mà thành, không tự nhiên được. Suy diễn rộng ra, một bài thơ, một ca khúc, một tiểu thuyết, một cuốn phim…   khi được hình thành để cúng dường Tam Bảo, cũng là từ vô lượng phước đức hộ trì chánh pháp.

Hãy nhìn quanh chúng ta sẽ thấy, có rất nhiều người trong thời Internet vẫn chưa tin Phật, chưa đọc Kinh Phật, chưa thọ ngũ giới… huống gì là có lòng tin thâm sâu, muốn sáng tác một tác phẩm nghệ thuật để cúng dường chư Phật. Do vậy, làm Phật tử là cơ duyên nghìn kiếp, huống gì được làm thơ, viết nhạc cúng Phật.  Tại sao chư Thiên trong Kinh đã hát cúng Phật, chúng ta thời này lại không có quyền soạn nhạc cúng Phật? Phải chăng vì tâm của chư Thiên lúc đó khác với tâm chúng ta hiện nay? Có lẽ.

Nhưng, nếu khôngphương tiện nghệ thuật, hẳn là Phật pháp khó phổ biến hơn.

Hãy hình dung, truyện Quan Âm Thị Kính… từ truyện thơ chữ Nôm đầu thế kỷ 19, trở thành chèo cổ, cải lương, kịch… và tư tưởng Phật giáo được chở vào lòng người một cách tự nhiên.

Cần ghi nhận rằng khi các cựu tướng lãnh nhà Tây Sơn thất trận, nhiều người đã vào chùa ẩn thântu học. Trong đó nổi tiếng nhất là Hải Lượng Thiền Sư Ngô Thì Nhậm (còn gọi là Ngô Thời Nhiệm), người được Vua Quang Trung gọi là, “Thật là trời để giành ông cho ta vậy.” Khi giữ chức Thượng thư bộ Lại đã hiến kế giúp Vua Quang Trung lui quân về giữ phòng tuyến Tam Điệp - Biện Sơn (Ninh Bình) trước khi đại binh Tây Sơn chia làm 5 đạo binh Bắc tiến, xuất trận Tết Kỷ Dậu (1789) đánh tan 30 vạn quân nhà Thanh đang giúp Lê Chiêu Thống. Vài năm sau khi Vua Quang Trung băng hà, Ngô Thì Nhậm không được triều đình Quang Toản tin dùng nữa, nên lui về  tu học, soạn bộ Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh, được tôn là đệ tứ tổ của Thiền phái Trúc Lâm. Khi Gia Long tiêu diệt nhà Tây Sơn, Ngô Thì Nhậm bị bạn cũ là Đặng Trần Thường đang làm quan cho Gia Long đưa ra Văn Miếu đánh roi, khi về nhà, Nhậm chết vì roi tẩm thuốc độc. Ngô Thì Nhậm, trước khi chết, viết 4 câu thơ để gửi Đặng Trần Thường, tiên tri rằng Thường sẽ bị chết thảm. Quả nhiên, Thường bị Vua Gia Long trở mặt, giết năm 1813.

Hay như trường hợp Hứa Sử Truyện. Truyện thơ chữ Nôm này xuất hiện đầu thế kỷ 18, cũng cho chúng ta nhìn về một hình ảnh thời khai hoang Miền Nam: khi các cựu tướng lãnh Tây Sơn bị Gia Long truy nã, đã trốn về phương Nam. Trong đó, có Hòa thượng Toàn Nhật, một trong những thiền sư góp sức soạn ra cuốn tiểu thuyết chữ Nôm có tên là Hứa Sử Truyện.

Tác phẩm này hé lộ cho thấy phương pháp dạy Phật pháp của các nhà sư thế kỷ 18, khi đi từ Miền Bắc và Trung về phía Nam đã dạy Thiền Tông qua cách niệm Phật hay không…

Nếu chúng ta nhìn về tác phẩm Trúc Lâm Tông Chỉ Nguyên Thanh và nhiều thi tập của Hải Lượng Thiền Sư Ngô Thì Nhậm, sẽ thấy những tác phẩm này không viết cho quần chúng đọc, thậm chí, ngay trong giới trí thức cũng thấy khó nắm tông chỉ Thiền, tuy là cuốn này cũng dựa vào Kinh Viên Giác để nêu tông chỉ Thấy Tánh.

Câu hỏi là, các nhà sư Nam Bộ thời đầu thế kỷ 18 đã truyền dạy Phật pháp thế nào, đối với những người dân quê không biết chữ, hay chỉ biết chữ tương đối để đọc qua loa? Cách đơn giản: gói Phật học vào tiểu thuyết, nơi đây là truyện thơ Hứa Sử Truyện, kể chuyện một nhà sư bị bắt nhầm xuống địa ngục, rồi Diêm Vương khi biết bắt nhầm đã dạy Phật pháp cho sư này, và rồi truyện càng lúc càng gay cấn,vân vân.

Một bản diễn Nôm và chú giải Hứa Sử Truyện do Giáo sư Nguyễn Văn Sâm -- thành viên Ban Biên Tập Tự Điển Chữ Nôm Trích Dẫn, và là Trưởng ban Văn chương tại Viện Việt Học -- thực hiện rất mực công phu và Lời Tựa Đề cực kỳ tuyệt vời của Giáo Sư Trần Ngọc Ninh, nguyên Viện Trưởng Viện Việt-Học (3/2003-2/2008)… dự kiến sẽ được Viện Việt Học xuất bản trong một hay hai tháng tới. Tác phẩm này hé lộ cho thấy cách dạy Phật pháp tại Nam Bộ thế kỷ 18 qua văn chương, qua nghệ thuật thơ, nghệ thuật kể truyện.

Như thế, chúng ta thấy: qua nhiều thời kỳ, trong rất nhiều trình độ khác nhau, Phật học được gói vào tác phẩm nghệ thuật – nghĩa là, nhạc, thơ, truyện, kịch, và bây giờ là phim.

*

Tới đây, chúng ta thử nhìn về quan hệ thơ và nhạc.

Có nhiều nhà thơ rất tuyệt vời, nhưng chúng ta đôi khi không nhớ nổi vài câu thơ của một số nhà thơ xuất sắc đó. Và rất thường, khi được phổ nhạc, nhiều câu thơ mới được nhắc tới.

Thí dụ, khi tôi (một người có trí nhớ trung bình) thử nhớ xem thi sĩ Phạm Thiên Thư có những câu thơ tiêu biểu nào, tôi không thể nhớ ngay nổi. Nghĩ một chặp, thì nhớ ra, "Em tan trường về – Đường mưa nho nhỏ…" Như thế, lại là nhờ tới nhạc Phạm Duy. Đó là trường hợp của một thi sĩ đã tới một đỉnh cao riêng như Phạm Thiên Thư, huống gì là các nhà thơ trung bình như tôi.

Do vậy, cơ duyên được nhạc sĩ Trần Chí Phúc phổ thơ, tôi tự xem là do hộ pháp hướng dẫn, muốn mình đem Phật pháp ra gói vào một hình  thức dễ nhớ. Tôi quen với Phúc từ 22 năm nay. Phúc ở San Jose, chỉ mới về Quận Cam một năm nay. Thường ngày niệm Đức Quan Âm, nhạc sĩ Trần Chí Phúc đã hỗ trợ nhiều cho quý Thầy và các  chùa Bắc California, và bây giờ là Nam California. Dự kiến sẽ mở lớp dạy đàn guitar và dạy sáng tác nhạc, đời sống gian nan nhưng tấm lòng cực kỳ thơ mộng, Trần Chí Phúc hễ nghe chuyện nhà chùa cần là không từ nan.

Một điểm tôi quý trọng nhạc sĩ Trần Chí Phúc là khi đi lại trên chốn giang hồ, gặp nhiều nghịch cảnh, kể cả những hoàn cảnh trên nguyên tắc là dẫn tới bút chiến -- trong đó, có một chuyện xảy ra trong giới nghệ sĩ, tôi lại bị đẩy vào cuộc và rồi chứng kiến phản ứng đơn giản của Phúc: niệm Phật, rồi im lặng bỏ qua.

Tôi đã vẽ một tấm tranh nhỏ, mực và màu nước trên giấy watercolor, khổ 9X12 inches để bày tỏ lòng khâm phục nhạc sĩ Trần Chí Phúc: khi những mũi tên tham sân si bắn tới, hãy ném lên những nốt nhạc của chánh niệm, của từ bi hỷ xả.

Tấm tranh như bên trên:

*

Nơi phần trên, chúng ta có nêu câu hỏi rằng khi các nhà sư vào Nam thời thế kỷ 18, đã dạy pháp thế nào? Đó là chuyện thời xưa: có thầy dạy Thiền, có thầy dạy Tịnh Độ. Và rồi, thời nay cũng thế.

Để cúng dường Tam Bảo, và để tiện dụng cho quý thầy và Phật tử, tôi đã làm hai bài thơ -- một về Thiền Tập, và một về Niệm Phật. Cả hai bài đều được nhạc sĩ Trần Chí Phúc (trancungson@yahoo.com) phổ thành nhạc. Các Gia Đình Phật Tử cần bản ký âm (music sheet), tôi tin là nhạc sĩ họ Trần sẽ không từ chối, khi hoàn tất.

Cũng cần ghi nhận rằng: khi ngồi Thiền hay khi Niệm Phật, nếu tâm lạc sang chỗ quyến luyến tiếng nhạc hay ý thơ, như thế cũng không nên. Vì sẽ vướng vào chỗ Đức Phật đã cấm, nghĩa là, dính mãi vào cõi này.

Nếu để ý, sau khi dự một buổi hòa nhạc xuất sắc, thí dụ, một đêm nhạc Trịnh Công Sơn hay Phạm Duy, một số điệu nhạc vẫn vướng vất trong tâm chúng ta, cả khi về nhà, cả khi bắt đầu ngủ, và có khi tiếng nhạc theo trong tâm lâu tới vài ngày. Không chỉ thế, nhan sắc các cô ca sĩ cũng đôi khi thoảng qua trong tâm chúng ta nhiều giờ.  Có cách nào để khi bảo thôi, thế là tâm dứt bặt mọi âm vang, hình bóng?

Có thể, mỗi người có phản ứng khác. Riêng tôi, có cách này hiệu nghiệm, có thể một số đạo hữu cũng sẽ thấy hữu dụng: nghiến răng thật nhẹ, nhẹ tới mức ra tiếng nhỏ hay không cần ra tiếng, và chú tâm nghe cái nghe đó, trong khi quan sát cử động nghiến răng đó, tự nhiên các điện nhạc lảng vảng trong đầu biến mất. Tương tự cũng mất cả các hình bóng lảng vảng. Nghĩa là, dùng tới pháp nghe của Kinh Lăng Nghiêm, niệm cái tánh nghe, lập tức các câu nhạc họ Trịnh, họ Phạm đều biến mất tiêu.

*

Sau đây là bài thơ về Thiền Tập.

Lắng Nghe Hơi Thở

Ngồi xuống dịu dàng
ngồi xuống dịu dàng
ngồi xuống dịu dàng
thư giãn toàn thân

nguyện xin an bình
nguyện xin giải thoát
cho con, cho ba
cho mẹ, cho anh
cho chị, cho em
cho khắp mọi người

Toàn thân dịu dàng
mắt khép nhẹ nhàng
lắng nghe thở vào thật nhẹ
lắng nghe thở ra thật nhẹ

Toàn thân dịu dàng
lặng lẽ phập phồng
cảm nhận thở vào thật nhẹ
cảm nhận thở ra thật nhẹ

Ngày qua, không nghĩ tới
ngày sau, chẳng bận tâm
lắng nghe và cảm nhận
hơi thởtoàn thân

Ngày qua, không nghĩ tới
ngày sau, chẳng bận tâm
lắng nghe và cảm nhận
hơi thởtoàn thân

Toàn thân dịu dàng
lặng lẽ lắng nghe
cảm nhận hơi thở
ngấm vào toàn thân
từ đầu tới chân

Toàn thân dịu dàng
buông xả tất cả
hiện tâm gương sáng
hơi thở lặng lẽ
niềm vui không lời.


Sau đây là bài thơ về pháp Niệm Phật.

Niệm Phật Trọn Thân Tâm

Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật
Nam Mô A Di Đà Phật

Quy y trọn thân tâm
ba đời Phật Pháp Tăng
tội cũ con sám hối
thiện mới con tinh cần
thân tâm một niệm
Nam Mô A Di Đà Phật

Niệm Phật nguyện vãng sanh
thành chữ viết trang kinh
thành mưa cho lúa mọc
thành thuyền pháp qua sông
cứu người thoát khổ
Nam Mô A Di Đà Phật

Niệm Phật là tay niệm Phật, nâng người té ngã, dìu người qua sông
Niệm Phật là chân niệm Phật, đi muôn ngàn dặm, đưa người tới nhà
Niệm Phật là lời niệm Phật, hóa chữ thành thơ, gọi người tỉnh giác
Niệm Phật là thân niệm Phật, toàn thân từ bi, độ vô lượng người

Niệm Phật niệm toàn thân
Phật hiện sáng ngời tâm
nhìn tâm là thấy Phật
nhìn Phật là thấy tâm
quay đầu là bờ
Nam Mô A Di Đà Phật

Niệm Phật nghe dịu dàng
từng chữ hiện rồi tan
thấy từng niệm ngời sáng
Tịnh độ hóa toàn thân
hiện tâm vô lượng
Nam Mô A Di Đà Phật.

 

*

Đó là hai trong những ca khúc hẳn là cần thiết cho rất nhiều Phật Tử. Một ca khúc cho Thiền, và một ca khúc cho Tịnh Độ. Xin mời cùng nhau tu học.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2464)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1994)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2439)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1816)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1900)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2190)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2714)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1623)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1552)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1735)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1571)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2155)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2303)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2004)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1799)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1713)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1900)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1637)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2604)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1757)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2098)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2094)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2427)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1735)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1917)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1795)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 1966)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2539)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3568)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2223)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2239)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1618)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1914)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2262)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2256)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2102)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3046)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2075)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2476)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2001)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1927)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2135)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2410)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 1983)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2389)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2330)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2908)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
(Xem: 1996)
Mặt trời khi xuất hiệnrạng rỡ, bừng sáng, dứt khoát xóa tan bóng tối để chiếm lĩnh cả không gian của thiên địa càn khôn. Mặt trăng thì không như vậy.
(Xem: 1898)
Từ cạnh tranh sinh tồn giữa các loài sinh vật, cho đến mâu thuẫn xã hội, hận thù tranh chấp, là những nét đặc trưng trong lịch sử tiến hóa, không chỉ riêng loài người.
(Xem: 2213)
Phật tử chúng ta được biết rằng, đã quy y Tam bảothọ trì năm giới ...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant