Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tâm Bình Thường Là Đạo

08 Tháng Tám 201516:20(Xem: 12563)
Tâm Bình Thường Là Đạo

TÂM BÌNH THƯỜNG LÀ ĐẠO

Thiện Ý

        
 Tâm Bình Thường Là ĐạoCâu ‘Tâm bình thường là Đạo’ phát sinh từ câu chuyện ngài Triệu Châu đến hỏi đạo ngài Nam Tuyền. Ngài Triệu Châu hỏi: “Thế nào là đạo?” Ngài Nam Tuyền đáp “Tâm bình thường là đạo”, nói theo chữ Hán là “bình thường tâm thị đạo”.  Vậy, tâm bình thường có gì ghê gớm mà có thể gọi là Đạo?  Chữ “bình” (平)trong tiếng Hán, nếu dịch sang tiếng Anh là ‘peace,’ mà nghĩa peace trong tiếng Anh rất là nhiều nghĩa.  Peace có thể dịch là sự bình an mà vượt lên trên cả bình diện hạnh phúc và khổ đau. 

Một khi tâm đã bình an, nghĩa là trong trạng thái buông xã hoàn toàn, không còn chấp thủ, hay dính mắc. Theo thiển ý, tâm bình thường là tâm với một thái độ vô cầu, không vướng mắcTâm bình thường cũng có thể hiểu là tâm an trú trong sự bình an, tĩnh mặc, như mặt nước hồ thu, yên tịnh, trong sáng, soi rọi và ôm trọn tất cả những cảnh trí quanh mình, mà hoàn toàn không bị đắm say, hay xáo trộn, dính mắc, như thi kệ nổi tiếng của thiền sư Hương Hải (1628-1715), còn gọi là Tổ Cầu, một thiền sư Việt nam, đã mô tả:

Nhạn bay ngang trời
Bóng chim đầm lạnh
Nhạn không có ý để lại dấu tích
Nước không có ý lưu bóng hình. 
(Bản dịch của Sư Ông Làng Mai)

(Nhạn quá trường không
Ảnh trầm hàn thủy
Nhạn vô di tích chi ý
Thủy vô lưu ảnh chi tâm)

          Người sống với tâm bình thường là người đã biết đủ, không còn tham cầu, mong ngóng để thành tựu thêm một cái gì nữa.  Cuộc sống của họ đã quá đầy đủ và họ mãn nguyện với cái mình đang có.  Họ không còn những đấu tranh, dằn vặt trong nội tâm.  Họ đã có thể sống bình an, hòa bình với tâm thức, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào.  Đói khát, nóng lạnh, khổ đau, hạnh phúc, v.v.. chỉ là những khái niệm do con người đặt tên.  Nên trong câu chuyện ‘chém mèo,’(Nguyên tác Vô Môn Quan do Nguyễn Nam Trân biên dịch),  ngài Nam Tuyền Phổ Nguyện (748-834) nhân việc các học tăng ở đông đường và tây đường cứ tranh cãi nhau vì một con mèo, mới nắm ngay nó tại chỗ và giơ lên, nói:  

-‘Nếu có ai trong các ngươi nói được một câu nào, ta sẽ tha mạng con mèo. Bằng không, ta sẽ chém nó cho coi.’

Chư tăng không ai đáp lại được. Rốt cục, không còn cách nào, Nam Tuyền chém con mèo.

Tối hôm đó, đại đệ tử của ông là Triệu Châu ở ngoài về. Nam Tuyền đem chuyện vừa xãy ra kể lại. Lúc đó, Triệu Châu mới tháo đôi dép cỏ mang dưới chân đội lên đầu và ra khỏi phòng.

Nam Tuyền thấy thế mới bảo:

-‘Nếu ngươi lúc đó có mặt thì nhất định con mèo không đến nổi chết!’

Thói thường, chúng ta hay đặt tên cho tất cả các sinh vật, hay đồ vật là để tiện việc đối thoại.  Nhưng lâu ngày, chày tháng chúng ta bị dính mắc vào tên gọi, nên khi ai đó có một ý niệm khác về vật đã được gọi quen lâu nay, mình cho rằng như vậy là sai. Sở dĩ ngài Nam Truyền làm thế và ngài Triệu Châu trả lời như vậy vì các ngài không còn bị dính mắc vào những thông tục về tên gọi và khái niệm của thế gianNên chi, giày dép là vật dơ bẩn để đi đường tránh dơ, sao lại đem đội trên đầu!  Tập khí của thói quen rất là mạnh. 

Khi mình đã quen thuộc với một cái gì đó, phải thay đổi cách suy nghĩ hay việc làm là điều rất khó chịu! Những hình thức mà đã được mình lập trình (programmed) trong tâm nên chi rất là khó khăn khi mình phải phá bỏ (delete) cái mà lâu nay mình cho là hoàn toàn đúng!

          Có thể đa số chúng ta sẽ cho rằng: như vậy khi mà chúng ta ai cũng tham muốn thành tựu cái này, cái kia nên chưa thấy khả năng chứng ngộ của mình thì tất cả đều có “tâm bất bình thường” cả sao?!  Trở lại vấn đề bên trên, bình thường, hay bất bình thường đều là những khái niệm cả; giống như đa số chúng ta khi đồng ý một chuyện gì thì gật đầu tán đồng.  Nhưng theo người gốc Ấn độ thì lắc đầu mới có nghĩa là tán thành, đồng ý.  Vậy khi mình đến xứ Ấn, muốn cho họ hiểu mình cũng phải lắc đầu theo vậy! 

          Theo tư tưởng trung đạo, tâm bình thường có nghĩa là chúng ta không để mình bị lôi kéo hay vướng mắc vào một cực đoan nào cả!  Hôm nay, sự kiện này có thể là đúng.  Nhưng ngày mai nó sẽ có thể không còn đúng nữa.  Nếu chúng ta bị mắc kẹt vào sự đúng sai, phải trái tyệt đối như vậy, thì tâm mình có được bình an trong cái thế giới vô thường, luôn luôn thay đổi này hay không?  Thế nên Phật dạy trong kinh Đại Bát Niết Bàn :

Chư hành vô thường,
Thị sinh diệt pháp.
Sinh diệt diệt dĩ,
Tịch diệt vi lạc.  

Nghĩa là: Các hiện tượng đều là vô thường, đều là những hiện tượng có sinh và có diệt. Khi cả sinh và diệt đều không còn, thì trạng thái ‘bình thường’ vắng lặng (tịch diệt) mới là niềm an lạc chân thật nhất.

          Cho nên, ngày xưa có một vị vua treo giải thưởng lớn cho họa sĩ nào có thể vẻ được một bức tranh ý nghĩa nhất, mô tả sự bình an.  Có rất nhiều họa sĩ dự thi.  Nhà vua xem xét hết mọi bức tranh nhưng chỉ có hai bức là nhà vua thích nhất và vua phải chọn một bức thắng giải.

          Một bức tranh mô tả một hồ nước tỉnh lặng.  Hồ nước trong tranh như là một tấm gương tuyệt hảo, phản ảnh những ngọn núi hùng vĩ bình yên, vững chải bao bọc xung quanh.  Trên cao là bầu trời xanh trong với những đám mây trắng như bông tuyết.  Mọi người xem bức tranh đều nghĩ đây quả thậtbức tranh tuyệt vời diễn tả sự bình an.

          Bức tranh kia cũng có núi non hùng vĩ, nhưng chúng rất hiểm trở, gồ ghề, và trần trụi.  Bên trên là một bầu trời xám xịt, mưa rơi tầm tả, và sấm chớp đầy trời.  Bên hông núi là một thác nước ầm ầm chảy.  Cảnh này chẳng có vẻ gì là bình an cả.  Nhưng khi nhà vua nhìn kỷ hơn, ông thấy phía sau thác nước là một bụi cây nhỏ mọc bám vào kẻ nứt của tảng đá.  Bên trong bụi cây là một con chim mẹ đang ngồi trong một cái tổ ấp con mình, an nhiên giữa những cuồng phong bảo tố của trời đất … thật là bình an làm sao!

          Bạn đoán thử xem bức tranh nào thắng giải?

          Nhà vua chọn bức thứ hai, bởi vì theo lời giải thích của nhà vua, “bình an không có nghĩa là đang sống trong một nơi bình an, không có sự ồn ào, phiền phức, hay khó khăn.  Bình an có nghĩa là đang sống ngay trong lòng của những hoàn cảnh trên, nhưng trong tâm vẫn an nhàn, tự tại.  Đó mới chính là ý nghĩa thực sự của sự bình an.”

                                                                                Thiện Ý

                                                                           (tháng 7, 2015)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 917)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1236)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 705)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 677)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 750)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 763)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 744)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 726)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 884)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 769)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 926)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 930)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 854)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 863)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 805)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 951)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 883)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 829)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 915)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 839)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 788)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 891)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 818)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1076)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 853)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 940)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1082)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1559)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1096)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1162)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1041)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 912)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 860)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 883)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 739)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1420)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1294)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1257)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1201)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1326)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1247)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1401)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1279)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1136)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1199)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1248)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1232)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1355)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1251)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant