Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ứng Dụng Tinh Thần Tùy Duyên Bất Biến, Bất Biến Tùy Duyên

06 Tháng Chín 201508:13(Xem: 14717)
Ứng Dụng Tinh Thần Tùy Duyên Bất Biến, Bất Biến Tùy Duyên

ỨNG DỤNG TINH THẦN
TÙY DUYÊN BẤT BIẾN, BẤT BIẾN TÙY DUYÊN

Thích Thông Việt

Ứng Dụng Tinh Thần Tùy Duyên Bất Biến, Bất Biến Tùy Duyên

Trước khi đề cập đến vấn đề “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”, người viết muốn đề cập đến một hình ảnh thật sống động qua loài thú bốn chân để gây sự bất ngờ thú vị đến với độc giả. Đó là loài hổ và loài mèo.


Loài hổ cũng như loài mèo khi bị ném lên trên không thì nó có khả năng chuyển mình rơi xuống vẫn chạm đất bằng bốn chân. Chúng không bị thương tổn hay phải chết vì sự rơi xuống, dầu rơi xuống từ cao. Chúng ta lấy hình ảnh này làm bài học cho con người áp dụng đạo lý “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên” để đi vào cuộc đờichúng ta đang sống bây giờ, và điều quan trọng là chúng ta có chuyển mình qua đạo lý ấy như loài mèo và loài cọp hay không?

Trong quyển từ điển Phật học thường kiến từ vựng, giải thích rằng: Tùy duyên bất biến nghĩa là tùy theo cơ duyên mà duyên với ngàn sai vạn biệt, nhưng bản thể của nó vẫn không thay đổi. Bất biến tùy duyên nghĩa là tuy tùy theo duyên mà hiện ra vạn hữu, nhưng bản thể của nó vẫn không thay đổi.

Qua hai câu trên cho chúng ta thấy được hai chữ “tùy duyên” câu một và hai chữ “tùy duyên” của câu hai nó mang chung một ý nghĩatùy theo “nhân duyên” của mỗi loại. Còn hai chữ “bất biến” của câu một và hai nó đồng nhất với nhau về nội dung là bản thể không thay đổi. Vậy, bây giờ chúng ta phải thực hiện đạo lý này như thế nào để cho nó tùy duyên được với bối cảnh văn minh, vật chấtthể chế chính trị mà mình đang sống đây.

Nhớ khoảng thế kỷ thứ VII có vị tổ tên là Huệ Năng, sau khi chứng ngộ với ngũ tổ Hoằng Nhẫn rồi thì ngài ở ẩn với bọn thợ săn hơn mười lăm năm. Mà ở với thợ săn thì phải đi săn, đi săn về thì phải ăn… không; ngài ở chung với bọn thợ săn để rồi ngài tùy theo đó mà giải thoát nghiệp, đi săn không phải để bắt giết chúng sanh mà để phóng sanh và cứu chúng sanh. Còn ăn thì chỉ ăn rau bên thịt chứ không ăn thịt bên rau. Với cuộc sống khó khăn và khắc nghiệt như thế đó mà ngài vẫn làm lợi ích rất nhiều cho bọn thợ săn và muông thú.

Trong bối cảnh hiện tại người Phật tử có tâm huyết với đạo với dân tộc, một mình phải gánh chịu nhiều vòng xuyến đang quay trên không để chờ chụp xiết chúng ta bất cứ lúc nào vào con đường u mê, đen tối, tội lỗi. Và ai cũng biết khó khăn lắm mới giữ được cho thuyền không bị lật úp giữa sóng gió ba đào. Đức Phật dạy: tại gia vì gia duyên ràng buộc nên khó vượt qua được sóng gió của danh lợi vật chất… còn hàng đệ tử xuất gia thì có nhiều thuận duyên hơn. Tuy nhiên, tại gia cố gắng làm được thì rất quí. Và có một điều nan giải khó khăn cho chúng ta, đó là những người cùng thuyền, cùng hội mà không đồng tâm hiệp lực để chèo chống, mà ngược lại họ nhảy ra khỏi thuyền, thậm chí còn lấy đó làm bàn đạp để nhảy cao lên con đường danh lợi một cách như bình an, nhưng rồi phải gánh chịu hậu quả với lịch sử là lừa thầy, phản bạn và tội lớn nhất không gì bù đắp lại được đó là phản lại lý tưởng của chính mình. Thật thấm thía khi nhớ đến lời Phật dạy là, chỉ có con vi trùng trong con sư tử mới giết hại được con sư tử. Còn vi trùng bên ngoài tuy vậy mà dễ chữa trị hơn.

Nói như vậy để chúng ta thấy được tệ hại của hiện tìnhcố gắng nỗ lực hơn lên nhằm tìm ra phương sách thích hợp để cứu đạo giúp đời, chứ tuyệt đối không nên sân hận bực tức. Vì chỉ có thương yêu mới xóa bỏ được hận thù mà thôi.

Chúng ta chắc hẳn còn nhớ là vào thời kỳ nhà Trần, nhân dân ta phải chịu lăm le, đe dọa của đế quốc phương Bắc và còn lo vua Chàm ở phương Nam. Với một đất nước bé nhỏ như nước ta thời nhà Trần mà lo ổn định để phòng chống bọn quân phương Bắc lớn mạnh như thế cũng đã là lấy trứng chọi đá rồi; vậy mà còn phải lo vỗ yên ở phía Nam để mở mang bờ cõi nhằm ổn định chính sách an bang bền vững thật là một thiên nan vạn nan. Ấy thế mà với tài năng kiệt xuất của ông vua Phật tử ngàn đời ghi danh, tên là Trần Nhân Tông (Giác Hoàng Điều Ngự) đã tùy duyên thích ứng với tình thế để vỗ an yên dân sản xuất kinh tế, tập luyện quân binh đánh tàu để giữ nước và thương lượng với vua Chàm để mở mang Đàng Trong.

Chuyện ghi lại, có lần vua cùng con là công chúa Huyền Trân ngồi bên dòng suối. Ngài bảo: Con hãy đưa cánh tay lên. Nàng nhẹ nhàng đưa cánh tay trái tròn trịa, mượt mà lên nhìn kỹ thì vua cha hỏi tiếp con có thấy gì trong cánh tay của con không? Nàng trả lời là thấy hoàng thượng và hoàng hậu (Từ Khâm). Vua dặn sau này con về với chồng (vua Chàm), nhớ sống sao cho xứng đáng để giúp dân giúp nước, vì cha mẹ anh em và đồng bào cả nước đều có đầy đủ ở trong con.

Với lời dạy bảo tuyệt hảo của ông vua Phật tử đối với đứa con gái của mình trước lúc về nhà chồng thật là thú vị xưa nay chưa từng có. Chưa nói đến tính chất “duyên sinh” của cuộc trao đổi mang tính dạy bảo của người cha biết đạo với người con thấu hiểu lý Phật.

Chúng tôi không đề cập đến cái hay cái đẹp ở mẫu đối thoại ấy nữa mà để dành độc giả tự cảm nhận lấy. Nhưng điều chúng tôi muốn nói ở đây là đức tính bản lĩnh, dám hi sinh, dám đương đầu và chống chọi từ quốc ngoại đến quốc nội một cách thật tài tình và uyển chuyển. Vì nước vì dân mà ngài phải hi sinh đứa con yêu quí ngọc ngà của mình đi lấy người ngoại bang. Ấy thế mà ngài vẫn bị chỉ trích, chống đối kịch liệt của một số thần dân trong nước. Họ cho rằng cành vàng lá ngọc mà để cho thằng “Mường” thằng “Mán” nó lấy thì còn ra thể thống gì. Nhưng vua không nghĩ bình thường như họ. Nhờ vậy mà trang sử xanh muôn đời vẫn đậm nét sắc son.

Người Phật tử sống trong hiện tại, hơn ai hết là phải ý thức trách nhiệm của mình đối với đời với đạo. Và nói cụ thể hơn là người Phật tử nào ý thức được vấn đề này thì hãy bắt tay vào công việc cần làm, thì giờ đang còn và đối tượng có thể chuyển hóa và huấn luyện được để trang bị và làm mới lại những gì mà mình thấy đúng với lời dạy của Phật là giúp dân giúp nước, giúp tổ chức của mình.

Đức Phật dạy chúng ta cố gắng tu tập để chuyển hóa những tạp khí còn vướng đọng trong tâm. Và phải nhớ rằng, người con Phật có quyền đau khổ và tủi nhục khi thấy người ngoại đạo hay một thể chế chính trị nào đó lợi dụng, bôi nhọ con đen… nhưng không được xem đó là kẻ thù mà phải khởi tâm thương yêu và nguyện tìm mọi cách để cứu giúp tất cả trở về với con đường đúng.

Mong rằng, với ý kiến này gợi lên được một vài ý nhỏ giúp cho người có ý thức trách nhiệm với quê hương đất nước, làm món quà lót dạ đi vào đạo lý “tùy duyên bất biến, bất biến tùy duyên”. Và đồng thời nó cũng khơi dậy được phần nào những tâm hồn đang ngủ yên, chưa tỉnh thức hay không chịu tỉnh thức.

Thích Thông Việt
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 769)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1094)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1265)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 994)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1333)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 752)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 820)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 978)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1001)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 944)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 983)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 947)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1002)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1136)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1153)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 963)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1261)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1364)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1463)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1344)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1196)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1296)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant