Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

10 Tháng Mười 201512:30(Xem: 9849)
Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

THÍ DỤ VỀ CHIẾC BÈ CỦA ĐỨC PHẬT 
The Buddha's Raft Parable

Barbara O'Brien
  Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật

 

Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật. Ngay cả những người biết rất ít về Phật Giáo, họ đã nghe nói đến câu chuyện về chiếc bè (hoặc là về chiếc thuyền, như ở trong những phiên bản khác).

Ý chính của câu chuyện như sau: Có một người đàn ông đang đi du hành trên con đường mòn, rồi ông gặp một vùng sông nước mênh mông. Khi ông đứng trên bờ, ông đã trông thấy nhiều điều nguy hiểm, nên ông cảm thấy phiền muộn. Tuy nhiên, ở bờ bên kia, ông nhìn thấy an toàn, nên ông mong muốn đi qua bên đó. 

Người đàn ông không tìm ra được một chiếc thuyền nào, hoặc một cây cầu nào cả. Tuy nhiên, sau khi ông nỗ lực làm việc, ông đã thu thập được nhiều cỏ, các cành cây nhỏ, các nhánh cây, rồi cột chúng lại, để làm thành một chiếc bè đơn giản. Nhờ có chiếc bè nổi trên mặt nước, ông lên chèo thuyền bằng đôi bàn tay, và bàn chân, rồi ông đã đến được bờ bên kia an toàn. Lúc nầy, ông có thể đi tiếp cuộc hành trình, trên đất liền.

Nhưng bây giờ, ông sẽ phải làm gì với chiếc bè tạm thời của ông đây? Ông sẽ kéo theo chiếc bè, hoặc là ông sẽ bỏ chiếc bè lại ở phía sau? Đức Phật nói rằng, ông nên để chiếc bè ở lại. Và, Đức Phật giải thích rằng, Phật Pháp giống như chiếc bè. Rồi, ngài nói tiếp, mục đích của chiếc bè là để vượt qua bờ bên kia, chứ không phải là để nắm giữ.

Câu truyện đơn giản nầy, đã truyền cảm hứng cho nhiều người, cho nên đã có nhiều lời giải thích khác nhau. Có phải Đức Phật nói rằng, Phật Pháp là một dụng cụ tạm thời, cho nên chúng ta có thể buông bỏ đi, sau khi chúng ta đã giác ngộ? Thí dụ về chiếc bè nầy, thường được nhiều người hiểu theo cách đó.

Nhiều người khác lại tranh luận rằng (qua những lý do được giải thích ở phần dưới đây), thí-dụ-về-chiếc-bè thật sự nói về việc làm thế nào để gìn giữ, và hiểu biết Lời Phật Dạy đúng theo lời dạy của ngài. Và, đôi khi một người nào đó, sẽ trích dẫn thí-dụ-về-chiếc-bè như là một cái cớ, để họ buông bỏ đi Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo), buông bỏ đi Các Giới Luật, và buông bỏ đi tất cả các phần còn lại của Lời Phật Dạy, bởi vì, cuối cùng họ nghĩ rằng, họ cũng sẽ phải buông bỏ đi tất cả.

BỐI CẢNH CỦA CÂU CHUYỆN

Thí-dụ-về-chiếc-bè xuất hiện trong Kinh Thí Dụ Về Con Rắn Nước (Alagaddupama) trong Kinh Tạng (Kinh Trung Bộ 22). Trong bài kinh nầy, Đức Phật đã thảo luận về sự quan trọng trong việc học hỏi Phật Pháp đúng đắn, và sự nguy hiểm của sự bám víu vào các quan điểm.

Bài kinh nầy bắt đầu bằng câu chuyện kể về nhà sư Arittha, người đã bám víu vào những quan điểm sai lầm, vì ông đã có sự hiểu lầm về Phật Pháp. Những nhà sư khác tranh luận với ông, nhưng nhà sư Arittha không chịu thay đổi cái nhìn của mình. Cuối cùng, họ xin Đức Phật đứng ra phân xử. Sau khi Đức Phật sửa chữa sự sai lầm của nhà sư Arittha, Đức Phật đã giải thích thêm, bằng cách ngài đưa ra hai thí dụ. Trong thí dụ thứ nhất, Đức Phật nói về con rắn nước, và trong thí dụ thứ nhì, ngài nói về chiếc bè.

Trong thí dụ đầu tiên, có một người đàn ông (không rõ vì lý do gì) đã đi ra ngoài kiếm con rắn nước. Chắc chắn là ông ta kiếm được con rắn nước rồi. Tuy nhiên, ông đã không bắt con rắn đúng cách, cho nên ông đã bị rắn cắn, và vết thương có nọc độc. Câu chuyện nầy được so sánh với một người cẩu thả, và thiếu chú ý khi học hỏi Phật Pháp, nên người nầy có những quan điểm nguy hiểm, và sai lầm (giống như bị rắn độc cắn!)

Thí-dụ-về-con-rắn-nước cũng dùng để giới thiệu, thí-dụ-về-chiếc-bè ở phần kế tiếp. Trong phần kết luận của thí-dụ-về-chiếc-bè, Đức Phật nói như sau,

"Nầy các Tỳ Kheo, cũng như thế, ta so sánh Phật Pháp giống như chiếc bè, mục đích của chiếc bè là để vượt qua bờ bên kia, chứ không phải là để nắm giữ. Khi chúng ta hiểu biết về Phật Pháp (như đã giảng-dạy) được ví-như chiếc-bè, chúng ta sẽ phải buông-bỏ Phật-Pháp, chứ đừng-nói những gì không-phải-là-Phật-Pháp." [Bản dịch của Thanissaro Bhikkhu]

Hầu hết, phần còn lại của bài kinh nầy nói về vô ngã, hoặc không-phải-là-cái-tôi, là đề tài mà nhiều người đã thường hiểu lầm. Khi có sự hiểu lầm, chúng ta sẽ dễ dàng có những quan điểm nguy hiểm và sai lầm (giống như bị rắn độc cắn!)

HAI PHƯƠNG CÁCH GIẢI THÍCH 

Tác giả và cũng là học giả Phật Giáo Damien Keown, trong quyển sách Bản Chất Đạo Đức Của Phật Giáo (1992), đã lập luận rằng Phật Pháp trong câu chuyện trên - đặc biệt là trong lãnh vực đạo đức, thiền định (định), và trí tuệ (tuệ) - là đại diện cho bờ-bên-kia, chứ không phải là đại diện cho chiếc-bè. Keown nói, thí-dụ-về-chiếc-bè thì không viết rằng, chúng ta sẽ buông bỏ Lời Phật Dạy, và giới luật khi chúng ta giác ngộ. Thay vào đó, chúng ta sẽ buông-bỏ sự hiểu biết không-hoàn-hảo, và tạm-thời về các giáo lý.

Học giả và cũng là nhà sư theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Thanissaro Bhikkhu, có một cái nhìn hơi khác, so với tác giả nói trên:

"... điểm nhấn mạnh của thí-dụ-về-con-rắn-nước là chúng ta phải nắm giữ Phật Pháp; tuy nhiên, chúng ta cần phải nắm giữ đúng cách. Điểm quan trọng nầy, sau đó được áp dụng cho thí-dụ-về-chiếc-bè, và ý tưởng nầy thì rất rõ ràng. Chúng ta phải nắm giữ chiếc bè cho đúng cách, để vượt qua sông. Chỉ khi nào chúng ta đã tới bờ bên kia an toàn rồi, chúng ta mới buông bỏ chiếc bè."

CHIẾC BÈ VÀ KINH KIM CƯƠNG

Những sự khác biệt trong thí-dụ-về-chiếc-bè cũng đã xuất hiện trong những bài kinh khác. Có một thí dụ đáng chú ý, được trông thấy trong chương thứ sáu của Kinh Kim Cương.

Nhiều bản dịch Anh Ngữ của Kinh Kim Cương đã có yếu điểm, vì người dịch cố gắng làm cho bài kinh dễ hiểu, cho nên chúng ta đã có nhiều phiên bản, đã được phổ biến khắp nơi trên thế giới. Sau đây là bản dịch của Red Pine:

"... các vị Bồ Tát không-sợ-hãi, can-đảm đã không-bám vào Phật-Pháp, các vị nầy cũng không-bám vào những gì không-phải-là-Phật-Pháp. Đây là ý nghĩa đằng sau câu nói của Đức Như Lai, 'Phật Pháp thì như chiếc bè. Nếu chúng ta sẽ phải buông bỏ Phật Pháp, thì chúng ta sẽ phải buông bỏ những gì không-phải-là-Phật-Pháp, một cách mau chóng hơn nữa.'"

Đoạn văn nhỏ nói trên của Kinh Kim Cương đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Theo cách hiểu biết thông thường, nếu là một vị Bồ Tát khôn ngoan, có trí tuệ, ngài sẽ nhận ra được sự hữu ích của Phật Pháp, nhưng ngài sẽ không bị dính mắc, cho nên, sau khi ngài làm xong công việc, ngài sẽ được tự do. "Không-phải-là-Phật-Pháp" đôi khi được giải thích là những vấn đề trần tục, hoặc là những sự giảng dạy của những tôn giáo khác.

Trong bối cảnh của Kinh Kim Cương, chúng ta sẽ thật là người ngu ngốc, nếu chúng ta xem đoạn văn trên như là một tờ giấy-cho-phép, để chúng ta buông bỏ đi các Lời Phật Dạy. Xuyên suốt bài kinh, Đức Phật dạy bảo chúng ta không nên ràng buộc với các khái niệm, ngay cả với các khái niệm về "Phật", và về "Pháp." Vì lý do đó, bất cứ lời giải thích nào về khái niệm của Kinh Kim Cương, sẽ làm cho chúng ta thất vọng (xin xem thêm "Ý Nghĩa Sâu Xa Của Kinh Kim Cương").

Và, nếu chúng ta hãy còn đang chèo thuyền, chúng ta cần phải chăm sóc chiếc bè của chúng ta.

The Buddha's Raft Parable

 

The raft parable is one of the best known of the Buddha's many parables and similes. Even people who know little else about Buddhism have heard the one about the raft (or, in some versions, a boat).

The basic story is this: A man traveling along a path came to a great expanse of water. As he stood on the shore, he realized there were dangers and discomforts all about. But the other shore appeared safe and inviting.

The man looked for a boat or a bridge and found neither. But with great effort he gathered grass, twigs and branches and tied them all together to make a simple raft. Relying on the raft to keep himself afloat, the man paddled with his hands and feet and reached the safety of the other shore. He could continue his journey on dry land.

Now, what would he do with his makeshift raft? Would he drag it along with him or leave it behind? He would leave it, the Buddha said. Then the Buddha explained that the dharma is like a raft. It is useful for crossing over but not for holding onto, he said.

This simple story has inspired more than one interpretation. Was the Buddha saying that the dharma is a kind of provisional appliance that can be discarded when one is enlightened? That is how the parable often is understood.

Others argue (for reasons explained below) that it is really about how to properly hold, or understand, the Buddha's teaching. And occasionally someone will cite the raft parable as an excuse to ignore the Eightfold Path, the Precepts, and the rest of the Buddha's teachings altogether, since you're going to ditch them, anyway.

THE STORY IN CONTEXT

The raft parable appears in the Alagaddupama (Water Snake Simile) Sutta of the Sutta-pitaka (Majjhima Nikaya 22). In this sutta, the Buddha discusses the importance of learning the dharma properly and the danger of clinging to views.

The sutta begins with an account of the monk Arittha, who was clinging to flawed views based on misunderstanding of the dharma. The other monks argued with him, but Arittha would not budge from his position. Eventually the Buddha was called upon to arbitrate. After correcting Arittha's misunderstanding, the Buddha followed up with two parables. The first parable is about a water snake, and the second is our parable of the raft.

In the first parable, a man (for reasons unexplained) went out looking for a water snake. And, sure enough, he found one. But he did not properly grasp the snake, and it gave him a poisonous bite.  This is compared to someone whose sloppy and inattentive study of the dharma leads to wrong-headed views.

The water snake parable introduces the raft parable. At the conclusion of the raft parable, the Buddha said,

"In the same way, monks, I have taught the Dhamma [dharma] compared to a raft, for the purpose of crossing over, not for the purpose of holding onto. Understanding the Dhamma as taught compared to a raft, you should let go even of Dhammas, to say nothing of non-Dhammas." [Thanissaro Bhikkhu translation]

Most of the rest of the sutta is about anatta, or not-self, which is a widely misunderstood teaching. How easily can misunderstanding lead to wrong-headed views!

TWO INTERPRETATIONS

Buddhist author and scholar Damien Keown argues, in The Nature of Buddhist Ethics (1992), that dharma - in particular morality, samadhi, and wisdom - are represented in the story by the other shore, not by the raft. The raft parable is not telling us that we will abandon the Buddha's teaching and precepts upon enlightenment, Keown says. Rather, we will let go of provisional and imperfect understanding of the teachings.

Theravadin monk and scholar Thanissaro Bhikkhu has a slightly different view:

"...the simile of the water-snake makes the point that the Dhamma has to be grasped; the trick lies in grasping it properly. When this point is then applied to the raft simile, the implication is clear: One has to hold onto the raft properly in order to cross the river. Only when one has reached the safety of the further shore can one let go."

THE RAFT AND THE DIAMOND SUTRA

Variations on the raft parable appear in other scriptures. One notable example is found in the sixth chapter of the Diamond Sutra.

Many English translations of the Diamond suffer from the translators' attempts to make sense of it, and versions of this chapter are all over the map, so to speak. This is from Red Pine's translation:

"...fearless bodhisattvas do not cling to a dharma, much less to no dharma. This is the meaning behind the Tathagata's saying, 'A dharma teaching is like a raft. If you should let go of dharmas, how much more so no dharmas.'"

This bit of the Diamond Sutra also has been interpreted in various ways. A common understanding is that a wise bodhisattva recognizes the usefulness of dharma teachings without becoming attached to them, so that they are released when they have done their work. "No dharma" is sometimes explained as worldly matters or to the teachings of other traditions.

In the context of the Diamond Sutra, it would be foolish to consider this passage as a permission slip to ignore dharma teachings altogether. Throughout the sutra, the Buddha instructs us to not be bound by concepts, even concepts of "Buddha" and "dharma." For that reason, any conceptual interpretation of the Diamond will fall short (see "The Deeper Meaning of the Diamond Sutra").

And as long as you're still paddling, take care of the raft.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2514)
Trong nhiều bài kinh về pháp niệm hơi thở (MN 118, AN 10.60), Đức Phật dạy:
(Xem: 2452)
Như một cách lựa chọn để hiểu về sự đa dạng hình thái của Phật giáo Việt Nam thế kỷ XXI, bài viết này đề xuất một mô hình
(Xem: 2364)
Phật giáo, nhất là Phật giáo trên con đường truyền bá và hội nhập luôn gắn liền với hai yếu tố căn bản: Khế lý và Khế cơ.
(Xem: 3119)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 3902)
Trong lịch sử nhân loại, Đức Phật Thích Ca là người đầu tiên đã giảng dạy những phương thức đem đến hạnh phúc cho con người và cả cho thiên giới.
(Xem: 2869)
Đức Phật đã nhiều lần răn dạy nếu cứ tranh chấp, đấu đá, hơn thua thì câu chuyện bất hòa sẽ kéo dài đến vô tận.
(Xem: 2984)
Sinh – lão – bệnh – tử là quá trình không ai có thể tránh khỏi. Với niềm tin từ kinh sách, truyền thống, tín ngưỡng, tôn giáo, khi có người chết
(Xem: 2564)
Bồ đề tâmphát nguyệnthực hành Bồ tát hạnh để đạt đến giác ngộ trong mong muốn giáo hóagiải thoát chúng sanh
(Xem: 2609)
Khi đọc lịch sử Đức Phật, có lẽ độc giả đều nhận ra lý do Thái tử Tất-đạt-đa (Sidhartha) quyết chí xuất gia tìm đạo.
(Xem: 2593)
Vượt thoát bể khổ, hẳn không ra ngoài chữ buông. Từ buông vật tài, đến buông thân, rồi buông vọng tưởng, âu là lộ trình vật vã.
(Xem: 2270)
Phải nói rằng Tăng đoàn là sự đóng góp rất lớn cho hạnh nguyện độ sanh của Đức PhậtTăng đoàn đã thay Phật để truyền bá
(Xem: 2581)
Nếu Đức Phật có thể cứu độ tất cả chúng sinh thì sẽ không có nhiều vị Phật, chỉ một vị Phật là đủ.
(Xem: 2946)
Tôi đào thoát khỏi Tây Tạng vào ngày 31 tháng 3 năm 1959. Kể từ đó tôi sống lưu vongẤn Độ.
(Xem: 3892)
Hiện nay phong trào tu thiền nở rộ nhất là Thiền Chánh Niệm, Thiền Vipassana khiến cho một số người coi thường pháp môn tu tập có tính truyền thống.
(Xem: 2912)
Cầu nguyện không thuộc lãnh địa của logic hay trí óc. Nó vượt lên trên những thứ đó. C
(Xem: 3561)
Người ta thường nói môn Abhidhamma rất khó học, và lại không thực tế. Rất khó học vì nó phân tích rất chi li
(Xem: 2769)
Trong những ngày đầu năm mới, có rất nhiều người tìm đến chùa hay các nhà tử vi, tướng số để xem năm nay mình bị “sao” nào “chiếu”.
(Xem: 2369)
Rỡ ràng tỏ rõ mười hai thì Tự tánh vô công khắp hiện bày Sáu căn vận dụng chân thường thấy Vạn pháp tung hoành: chánh biến tri.
(Xem: 3265)
Một ngày cuối năm, sau tách trà sáng chào ngày mới, tôi vội vàng ra ga tàu đón người bạn đạo xa quê trở về thăm chốn cũ.
(Xem: 2826)
Trong những điển tích Phật giáo, tôi từng băn khoăn về chuyện một con cọp lông vàng. Câu chuyện đơn giản thôi, nhưng rất đáng cho chúng ta suy ngẫm.
(Xem: 2534)
Vận hành thế sự bao quanh, bát quái càn khôn đỉnh là chung, âm dương ngũ hành là như thế, vật đổi sao dời chẳng ai ngờ…! Tất nhiên điệp khúc vẫn là đây.
(Xem: 2824)
Cọp, Sư tửbiểu tượng của chúa sơn lâm. Tiếng rống của Sư tử chúa, làm muôn thú khép mình khiếp sợ, được nhiếp phục trước uy lực dũng mãnh.
(Xem: 3464)
Bài Pháp hôm nay là một trong những bài Pháp có thể nói rằng rất khó quên trong cuộc đời của chúng tôi.
(Xem: 3776)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 3907)
Dù có nao nức đợi chờ hay hững hờ thờ ơ, dù có mong mỏi hay chẳng cầu vọng thì mùa xuân vẫn hiển hiện trong đất trời, trong lòng người.
(Xem: 2505)
Sau khi Đức Phật giác ngộ, Phạm thiên Sahampati thỉnh cầu ngài thuyết pháp, ngài đã nói như sau:
(Xem: 2486)
Năm mới là thời điểm nổi bật trong cuộc sống của chúng ta. Tôi nói thế khi nghĩ về việc thực hành của chúng ta.
(Xem: 2222)
Hiện tại có tính bình đẳng cho tất cả mọi người. Dầu ở bất cứ nơi nào trên trái đất, dầu tôi và anh ở múi giờ khác nhau, người ta vẫn ...
(Xem: 3735)
Theo Phật giáo, cúng dường hay Cung dưỡng có nghĩa là cung cấp nuôi dưỡng hay cúng dường những thứ lễ vật như ...
(Xem: 2835)
Để đạo Phật được toàn cầu hóa, ngoài những lợi thế sẵn có của Phật giáo Nguyên thủy, như bảo tồn được ...
(Xem: 4036)
Như Lai đã khẳng định “Như Lai chỉ là người dẫn đường”. Quả đúng như vậy, nếu chúng ta muốn đi đến đích mà không biết đường, trước tiên...
(Xem: 3237)
Nếu ăn chay được thì đó là dựa vào lập trường từ bi chứ không phải như người ta hiện này nói nguyên nhân khỏe mạnh và kinh tế.
(Xem: 3674)
Chúng ta phải cẩn thận để không nghĩ rằng hành thiền là phải dẹp bỏ các suy tưởng.
(Xem: 2883)
Bài kinh ngắn “Con Đường Không Có Lầm Lỗi” là bài kinh được trích trong Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikãya)
(Xem: 3770)
Thời Lý – Trần là thời kỳ vàng son nhất của Phật giáo Việt Nam khi nhận được sự ủng hộ rất lớn từ triều đình và
(Xem: 3247)
Kể từ khi Đức Phật thành đạochuyển bánh xe pháp thì lý tưởng thực thi tinh thần bình đẳng giải thoátbình đẳng...
(Xem: 3323)
Cho đến nay, đại dịch COVID-19 đã hoành hành trên thế giới gần hai năm.
(Xem: 2908)
Bình anhạnh phúc là hai phạm trù cơ bản trong cuộc sống mà con người luôn mong ước đạt được đầy đủ và trọn vẹn nhất, để cuộc sống thêm thăng hoa
(Xem: 2672)
Trong một kiếp nhân gian, mọi chúng sinh đều khởi đầu từ sinh và kết thúc ở diệt.
(Xem: 3656)
Trong xã hội hiện nay, chúng ta đề cao tinh thần nhập thế, đem đạo vào đời. Vậy làm thế nào để Phật sự mãi thăng tiến, tỏa sáng, ma sự ngày càng tiêu trừ.
(Xem: 2612)
Liều thuốc giải cho ảo tưởng, bản ngã và từng vấn đề khác mà chúng ta đối mặt là trí huệ của Pháp;
(Xem: 3135)
Sự phát triển của thời đại công nghệ số, cám dỗ vật chất và những thách thức từ khủng hoảng môi trường, dịch bệnh, kinh tế, xã hội,…
(Xem: 3534)
“Này Cunda, nếu những gì thuộc quá khứhư vọng, không thật, không có lợi ích, Như lai không trả lời.
(Xem: 3708)
Sống trong thế giới đầy biến động của đại dịch COVID-19 bùng phát, mới thấy sự hiện hữu của con người trong mối tương quan
(Xem: 2847)
Khi Đức Phật còn hiện hữu cõi Ta-bà, chúng đệ tử xuất gia sống thanh tịnh, hòa hợp thành một thể thống nhất,
(Xem: 2608)
Ngoài Danh và Sắc, phần tâm linh và phần vật chất, là hai thành phần cấu tạo chúng sanh, Phật Giáo không chấp nhận
(Xem: 3095)
Ajhan Chah nói rằng nếu bạn muốn chuyển hóa tâm, bạn phải biết và chuyển hóa trái tim. Và khi thực hành bạn cảm thấy không thoải mái, muốn bỏ cuộc, đó là khi bạn biết mình đang đi đúng đường.
(Xem: 3603)
Giã từ cõi mộng điêu linh Tôi về buôn bán với mình phôi pha.
(Xem: 3197)
Những rộn ràng họp hội mấy giờ trước đã lắng xuống. Tiếng nói, giọng cười ai đó, đã tan vào hư không.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant