Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

10 Tháng Mười 201512:30(Xem: 9686)
Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

THÍ DỤ VỀ CHIẾC BÈ CỦA ĐỨC PHẬT 
The Buddha's Raft Parable

Barbara O'Brien
  Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến


Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật (song ngữ)

Thí Dụ Về Chiếc Bè Của Đức Phật

 

Thí dụ về chiếc bè là một trong những ngụ ngôn và ẩn dụ, quen thuộcnổi tiếng nhất của Đức Phật. Ngay cả những người biết rất ít về Phật Giáo, họ đã nghe nói đến câu chuyện về chiếc bè (hoặc là về chiếc thuyền, như ở trong những phiên bản khác).

Ý chính của câu chuyện như sau: Có một người đàn ông đang đi du hành trên con đường mòn, rồi ông gặp một vùng sông nước mênh mông. Khi ông đứng trên bờ, ông đã trông thấy nhiều điều nguy hiểm, nên ông cảm thấy phiền muộn. Tuy nhiên, ở bờ bên kia, ông nhìn thấy an toàn, nên ông mong muốn đi qua bên đó. 

Người đàn ông không tìm ra được một chiếc thuyền nào, hoặc một cây cầu nào cả. Tuy nhiên, sau khi ông nỗ lực làm việc, ông đã thu thập được nhiều cỏ, các cành cây nhỏ, các nhánh cây, rồi cột chúng lại, để làm thành một chiếc bè đơn giản. Nhờ có chiếc bè nổi trên mặt nước, ông lên chèo thuyền bằng đôi bàn tay, và bàn chân, rồi ông đã đến được bờ bên kia an toàn. Lúc nầy, ông có thể đi tiếp cuộc hành trình, trên đất liền.

Nhưng bây giờ, ông sẽ phải làm gì với chiếc bè tạm thời của ông đây? Ông sẽ kéo theo chiếc bè, hoặc là ông sẽ bỏ chiếc bè lại ở phía sau? Đức Phật nói rằng, ông nên để chiếc bè ở lại. Và, Đức Phật giải thích rằng, Phật Pháp giống như chiếc bè. Rồi, ngài nói tiếp, mục đích của chiếc bè là để vượt qua bờ bên kia, chứ không phải là để nắm giữ.

Câu truyện đơn giản nầy, đã truyền cảm hứng cho nhiều người, cho nên đã có nhiều lời giải thích khác nhau. Có phải Đức Phật nói rằng, Phật Pháp là một dụng cụ tạm thời, cho nên chúng ta có thể buông bỏ đi, sau khi chúng ta đã giác ngộ? Thí dụ về chiếc bè nầy, thường được nhiều người hiểu theo cách đó.

Nhiều người khác lại tranh luận rằng (qua những lý do được giải thích ở phần dưới đây), thí-dụ-về-chiếc-bè thật sự nói về việc làm thế nào để gìn giữ, và hiểu biết Lời Phật Dạy đúng theo lời dạy của ngài. Và, đôi khi một người nào đó, sẽ trích dẫn thí-dụ-về-chiếc-bè như là một cái cớ, để họ buông bỏ đi Con Đường Cao Quý Có Tám Phần (Bát Chánh Đạo), buông bỏ đi Các Giới Luật, và buông bỏ đi tất cả các phần còn lại của Lời Phật Dạy, bởi vì, cuối cùng họ nghĩ rằng, họ cũng sẽ phải buông bỏ đi tất cả.

BỐI CẢNH CỦA CÂU CHUYỆN

Thí-dụ-về-chiếc-bè xuất hiện trong Kinh Thí Dụ Về Con Rắn Nước (Alagaddupama) trong Kinh Tạng (Kinh Trung Bộ 22). Trong bài kinh nầy, Đức Phật đã thảo luận về sự quan trọng trong việc học hỏi Phật Pháp đúng đắn, và sự nguy hiểm của sự bám víu vào các quan điểm.

Bài kinh nầy bắt đầu bằng câu chuyện kể về nhà sư Arittha, người đã bám víu vào những quan điểm sai lầm, vì ông đã có sự hiểu lầm về Phật Pháp. Những nhà sư khác tranh luận với ông, nhưng nhà sư Arittha không chịu thay đổi cái nhìn của mình. Cuối cùng, họ xin Đức Phật đứng ra phân xử. Sau khi Đức Phật sửa chữa sự sai lầm của nhà sư Arittha, Đức Phật đã giải thích thêm, bằng cách ngài đưa ra hai thí dụ. Trong thí dụ thứ nhất, Đức Phật nói về con rắn nước, và trong thí dụ thứ nhì, ngài nói về chiếc bè.

Trong thí dụ đầu tiên, có một người đàn ông (không rõ vì lý do gì) đã đi ra ngoài kiếm con rắn nước. Chắc chắn là ông ta kiếm được con rắn nước rồi. Tuy nhiên, ông đã không bắt con rắn đúng cách, cho nên ông đã bị rắn cắn, và vết thương có nọc độc. Câu chuyện nầy được so sánh với một người cẩu thả, và thiếu chú ý khi học hỏi Phật Pháp, nên người nầy có những quan điểm nguy hiểm, và sai lầm (giống như bị rắn độc cắn!)

Thí-dụ-về-con-rắn-nước cũng dùng để giới thiệu, thí-dụ-về-chiếc-bè ở phần kế tiếp. Trong phần kết luận của thí-dụ-về-chiếc-bè, Đức Phật nói như sau,

"Nầy các Tỳ Kheo, cũng như thế, ta so sánh Phật Pháp giống như chiếc bè, mục đích của chiếc bè là để vượt qua bờ bên kia, chứ không phải là để nắm giữ. Khi chúng ta hiểu biết về Phật Pháp (như đã giảng-dạy) được ví-như chiếc-bè, chúng ta sẽ phải buông-bỏ Phật-Pháp, chứ đừng-nói những gì không-phải-là-Phật-Pháp." [Bản dịch của Thanissaro Bhikkhu]

Hầu hết, phần còn lại của bài kinh nầy nói về vô ngã, hoặc không-phải-là-cái-tôi, là đề tài mà nhiều người đã thường hiểu lầm. Khi có sự hiểu lầm, chúng ta sẽ dễ dàng có những quan điểm nguy hiểm và sai lầm (giống như bị rắn độc cắn!)

HAI PHƯƠNG CÁCH GIẢI THÍCH 

Tác giả và cũng là học giả Phật Giáo Damien Keown, trong quyển sách Bản Chất Đạo Đức Của Phật Giáo (1992), đã lập luận rằng Phật Pháp trong câu chuyện trên - đặc biệt là trong lãnh vực đạo đức, thiền định (định), và trí tuệ (tuệ) - là đại diện cho bờ-bên-kia, chứ không phải là đại diện cho chiếc-bè. Keown nói, thí-dụ-về-chiếc-bè thì không viết rằng, chúng ta sẽ buông bỏ Lời Phật Dạy, và giới luật khi chúng ta giác ngộ. Thay vào đó, chúng ta sẽ buông-bỏ sự hiểu biết không-hoàn-hảo, và tạm-thời về các giáo lý.

Học giả và cũng là nhà sư theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Thanissaro Bhikkhu, có một cái nhìn hơi khác, so với tác giả nói trên:

"... điểm nhấn mạnh của thí-dụ-về-con-rắn-nước là chúng ta phải nắm giữ Phật Pháp; tuy nhiên, chúng ta cần phải nắm giữ đúng cách. Điểm quan trọng nầy, sau đó được áp dụng cho thí-dụ-về-chiếc-bè, và ý tưởng nầy thì rất rõ ràng. Chúng ta phải nắm giữ chiếc bè cho đúng cách, để vượt qua sông. Chỉ khi nào chúng ta đã tới bờ bên kia an toàn rồi, chúng ta mới buông bỏ chiếc bè."

CHIẾC BÈ VÀ KINH KIM CƯƠNG

Những sự khác biệt trong thí-dụ-về-chiếc-bè cũng đã xuất hiện trong những bài kinh khác. Có một thí dụ đáng chú ý, được trông thấy trong chương thứ sáu của Kinh Kim Cương.

Nhiều bản dịch Anh Ngữ của Kinh Kim Cương đã có yếu điểm, vì người dịch cố gắng làm cho bài kinh dễ hiểu, cho nên chúng ta đã có nhiều phiên bản, đã được phổ biến khắp nơi trên thế giới. Sau đây là bản dịch của Red Pine:

"... các vị Bồ Tát không-sợ-hãi, can-đảm đã không-bám vào Phật-Pháp, các vị nầy cũng không-bám vào những gì không-phải-là-Phật-Pháp. Đây là ý nghĩa đằng sau câu nói của Đức Như Lai, 'Phật Pháp thì như chiếc bè. Nếu chúng ta sẽ phải buông bỏ Phật Pháp, thì chúng ta sẽ phải buông bỏ những gì không-phải-là-Phật-Pháp, một cách mau chóng hơn nữa.'"

Đoạn văn nhỏ nói trên của Kinh Kim Cương đã được giải thích theo nhiều cách khác nhau. Theo cách hiểu biết thông thường, nếu là một vị Bồ Tát khôn ngoan, có trí tuệ, ngài sẽ nhận ra được sự hữu ích của Phật Pháp, nhưng ngài sẽ không bị dính mắc, cho nên, sau khi ngài làm xong công việc, ngài sẽ được tự do. "Không-phải-là-Phật-Pháp" đôi khi được giải thích là những vấn đề trần tục, hoặc là những sự giảng dạy của những tôn giáo khác.

Trong bối cảnh của Kinh Kim Cương, chúng ta sẽ thật là người ngu ngốc, nếu chúng ta xem đoạn văn trên như là một tờ giấy-cho-phép, để chúng ta buông bỏ đi các Lời Phật Dạy. Xuyên suốt bài kinh, Đức Phật dạy bảo chúng ta không nên ràng buộc với các khái niệm, ngay cả với các khái niệm về "Phật", và về "Pháp." Vì lý do đó, bất cứ lời giải thích nào về khái niệm của Kinh Kim Cương, sẽ làm cho chúng ta thất vọng (xin xem thêm "Ý Nghĩa Sâu Xa Của Kinh Kim Cương").

Và, nếu chúng ta hãy còn đang chèo thuyền, chúng ta cần phải chăm sóc chiếc bè của chúng ta.

The Buddha's Raft Parable

 

The raft parable is one of the best known of the Buddha's many parables and similes. Even people who know little else about Buddhism have heard the one about the raft (or, in some versions, a boat).

The basic story is this: A man traveling along a path came to a great expanse of water. As he stood on the shore, he realized there were dangers and discomforts all about. But the other shore appeared safe and inviting.

The man looked for a boat or a bridge and found neither. But with great effort he gathered grass, twigs and branches and tied them all together to make a simple raft. Relying on the raft to keep himself afloat, the man paddled with his hands and feet and reached the safety of the other shore. He could continue his journey on dry land.

Now, what would he do with his makeshift raft? Would he drag it along with him or leave it behind? He would leave it, the Buddha said. Then the Buddha explained that the dharma is like a raft. It is useful for crossing over but not for holding onto, he said.

This simple story has inspired more than one interpretation. Was the Buddha saying that the dharma is a kind of provisional appliance that can be discarded when one is enlightened? That is how the parable often is understood.

Others argue (for reasons explained below) that it is really about how to properly hold, or understand, the Buddha's teaching. And occasionally someone will cite the raft parable as an excuse to ignore the Eightfold Path, the Precepts, and the rest of the Buddha's teachings altogether, since you're going to ditch them, anyway.

THE STORY IN CONTEXT

The raft parable appears in the Alagaddupama (Water Snake Simile) Sutta of the Sutta-pitaka (Majjhima Nikaya 22). In this sutta, the Buddha discusses the importance of learning the dharma properly and the danger of clinging to views.

The sutta begins with an account of the monk Arittha, who was clinging to flawed views based on misunderstanding of the dharma. The other monks argued with him, but Arittha would not budge from his position. Eventually the Buddha was called upon to arbitrate. After correcting Arittha's misunderstanding, the Buddha followed up with two parables. The first parable is about a water snake, and the second is our parable of the raft.

In the first parable, a man (for reasons unexplained) went out looking for a water snake. And, sure enough, he found one. But he did not properly grasp the snake, and it gave him a poisonous bite.  This is compared to someone whose sloppy and inattentive study of the dharma leads to wrong-headed views.

The water snake parable introduces the raft parable. At the conclusion of the raft parable, the Buddha said,

"In the same way, monks, I have taught the Dhamma [dharma] compared to a raft, for the purpose of crossing over, not for the purpose of holding onto. Understanding the Dhamma as taught compared to a raft, you should let go even of Dhammas, to say nothing of non-Dhammas." [Thanissaro Bhikkhu translation]

Most of the rest of the sutta is about anatta, or not-self, which is a widely misunderstood teaching. How easily can misunderstanding lead to wrong-headed views!

TWO INTERPRETATIONS

Buddhist author and scholar Damien Keown argues, in The Nature of Buddhist Ethics (1992), that dharma - in particular morality, samadhi, and wisdom - are represented in the story by the other shore, not by the raft. The raft parable is not telling us that we will abandon the Buddha's teaching and precepts upon enlightenment, Keown says. Rather, we will let go of provisional and imperfect understanding of the teachings.

Theravadin monk and scholar Thanissaro Bhikkhu has a slightly different view:

"...the simile of the water-snake makes the point that the Dhamma has to be grasped; the trick lies in grasping it properly. When this point is then applied to the raft simile, the implication is clear: One has to hold onto the raft properly in order to cross the river. Only when one has reached the safety of the further shore can one let go."

THE RAFT AND THE DIAMOND SUTRA

Variations on the raft parable appear in other scriptures. One notable example is found in the sixth chapter of the Diamond Sutra.

Many English translations of the Diamond suffer from the translators' attempts to make sense of it, and versions of this chapter are all over the map, so to speak. This is from Red Pine's translation:

"...fearless bodhisattvas do not cling to a dharma, much less to no dharma. This is the meaning behind the Tathagata's saying, 'A dharma teaching is like a raft. If you should let go of dharmas, how much more so no dharmas.'"

This bit of the Diamond Sutra also has been interpreted in various ways. A common understanding is that a wise bodhisattva recognizes the usefulness of dharma teachings without becoming attached to them, so that they are released when they have done their work. "No dharma" is sometimes explained as worldly matters or to the teachings of other traditions.

In the context of the Diamond Sutra, it would be foolish to consider this passage as a permission slip to ignore dharma teachings altogether. Throughout the sutra, the Buddha instructs us to not be bound by concepts, even concepts of "Buddha" and "dharma." For that reason, any conceptual interpretation of the Diamond will fall short (see "The Deeper Meaning of the Diamond Sutra").

And as long as you're still paddling, take care of the raft.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13510)
Hận thù không thể khắc phục và diệt trừ bởi tâm thù hận. Một người đang tức giận, nếu bạn đáp trả họ bằng sự giận dữ, kết quả rất tai hại.
(Xem: 13833)
Nếu không hiểu rõ giá trị truyền thống của các tôn giáo bạn, thì chúng ta rất khó bày tỏ lòng kính trọng các tín ngưỡng khác biệt.
(Xem: 13589)
Tôi nghĩ là điều sai lầm khi chúng ta hy vọng rằng những vấn đề khó khăn hiện nay của chúng ta có thể giải quyết bằng tiền bạc hay quyền lợi vật chất.
(Xem: 13116)
Hiện nay nhân loại sống trên trái đất này, đang phải đối đầu với một vấn đề nan giải là bằng cách nào chúng ta có thể giúp đỡ mọi người sống có hạnh phúc.
(Xem: 13203)
Trong mọi tình huống có hại cho tinh thần, tình trạng có khả năng nguy hiểm và bệnh hoạn nhất là sự lo nghĩ trường kỳ.
(Xem: 13551)
Tồn tại qua bao nhiêu thế kỷ, ngày nay bánh xe Pháp của vua A Dục với một sứ mạng mới, đã gởi đến mọi quốc gia trên thế giới bức thông điệp hòa bình của Ấn độ ngàn xưa.
(Xem: 13976)
Đức Phật dạy rằng điều lành, nghĩa là các kết quả thiện phát sinh từ những nguyên nhân tốt; và kết quả xấu chỉ có thể dẫn đến từ các nguyên nhân bất thiện.
(Xem: 14791)
Người Tây Tạng vốn có tinh thần tôn trọng cá nhân khá cao, cho nên họ sẵn sàng chấp nhậntôn kính hết thảy mọi hình thức tín ngưỡngtôn giáo.
(Xem: 16044)
Trong lúc làm kẻ khác đau khổ, con người đã tự gây đau khổ cho chính mình. Ðó là điều mê lầm hoặc muốn lầm mê của con người. Vô minh là nguồn gốc của mọi tội ác.
(Xem: 13783)
Điều quan trọng nhất trong cuộc sống của con ngườitình thương. Thiếu tình thương, con người không thể có hạnh phúc chân thật.
(Xem: 15462)
Dr. Rajendra prasad (1884-1963), là một học giả và chính trị gia Ấn Ðố nổi tiếng.
(Xem: 14701)
Dưới đây là một câu chuyện thực, rất cảm động, xảy ra tại Nhật Bản nhiều năm trước đây.
(Xem: 12287)
Bình thản, bình tĩnh, thanh thản, thanh bình, yên lặng, trầm tĩnh, trầm lặng, dịu dàng, nhẹ nhàng, ông tự lặp đi lặp lại trong đầu và tìm cho ra hết tất cả những chữ đồng nghĩa với chữ “Ruhe”
(Xem: 13437)
Khi sống quay cuồng, mải chạy đuổi theo khát vọng, chúng ta vô tình bỏ quên những hạnh phúcchúng ta đang có, đến khi hạnh phúc mất đi...
(Xem: 16889)
Nếu như có thời gian, thì bạn nên đi đâu đó, lang thang qua những miền gió cát, thiên di về những nơi xa lơ, xa lắc nào đó.
(Xem: 14102)
Nhà văn Becsnaso đã từng nói:“ Trên thế giới có biết bao nhiêu kỳ quan đẹp đẽ, nhưng trái tim của người mẹ là kỳ quan vĩ đại nhất”.
(Xem: 14028)
Anh dừng lại tiệm bán hoa để gửi hoa tặng mẹ qua đường bưu điện. Mẹ anh sống cách chỗ anh khoảng 300km.
(Xem: 19460)
Con Bê khẻ mở mắt nhìn lên. Hai chân trước nó đưa ra tựa như muốn chắp lại. Trên khóe mắt đọng lại đôi dòng lệ nhỏ. Nó đang sám hối...
(Xem: 19584)
Bà Tú sung sướng đón nhận đạo pháp của bậc chân tu đạo hạnh với cõi lòng nhẹ nhàng, êm dịu như vừa hứng được ngọn gió mát lành...
(Xem: 17816)
Hình ảnh những bến đò, những sân ga thường gợi cho chúng ta sự linh động của đến, đi, chia tay và hội ngộ, khởi hành và điểm tới...
(Xem: 21389)
Ở cao nguyên Hùng Hoàng (Manosilā) có rất nhiều Tỳ-kheo quảng học đa văn và tiếng nói thì lớn như tiếng rống của sư tử.
(Xem: 20185)
Đồng hành không có nghĩa chỉ là đi với nhau mà còn phải nương tựa vào nhau, không phải chỉ tìm đến cái đích của chuyến đi mà còn chia sẻ với nhau trong chuyến đi.
(Xem: 23154)
Ngón tay của bậc đạo sư dùng để chỉ mặt trăng cho học trò, chứ không phải ngón tay là mặt trăng. Người học trò lại bám lấy ngón tay và cho ngón tay là mặt trăng.
(Xem: 22408)
Một hôm những chú sâu ăn chơi bất kể đối với những chiếc lá non, bất chợt lại có những chú chim sẻ xuất hiện làm cho những chú sâu khiếp đảm...
(Xem: 17073)
Nắng chiều vừa sụp tắt lúc tôi đặt chân đến chân đồi Mandalay huyễn hoặc. Trăng mùng 8 lên cao trên bầu trời trong vắt. Những bậc thềm có mái che...
(Xem: 16818)
Xã hội Ấn nói chung khá bình lặng, hiền hòa. Họ sống gần gũi với thiên nhiên và rất yêu mến thiên nhiên. Ở đây ta có thể bắt gặp công viên bất cứ nơi đâu.
(Xem: 18791)
Chuyến xe bắt đầu rời khỏi đô thị nhộn nhịp hướng về vùng cao nguyên bạc ngàn đồi núi, và điểm đến của tôi cũng không phải là quá xa, nhưng đã nhiều năm chúng tôi không gặp...
(Xem: 23861)
Với Sparky, việc học rất quan trọng nhưng cũng là điều không tưởng. Bởi nó (tiêu) tất cả các môn ở lớp 8. Nó thi rớt môn vật lý trong trường trung học...
(Xem: 21230)
Con trai tôi đang cẩn thận lau chùi mặt bếp lò, giọt nước mắt của nó hoà lẫn với nước lau cửa sổ rơi xuống bệ. Tôi nhìn quanh căn bếp tôi đã quá mệt mỏi không thể lau dọn nổi...
(Xem: 22266)
Có một cậu bé sống trong trại mồ côi từ nhỏ. Cậu bé luôn luôn ước mơ rằng mình có thể bay được như những chú chim.
(Xem: 24577)
Người chủ tiệm treo tấm bảng "Bán chó con" lên cánh cửa. Những tấm biển kiểu như vậy luôn hấp dẫn các khách hàng nhỏ tuổi. Ngay sau đó, có một cậu bé xuất hiện.
(Xem: 21903)
Thử nghĩ xem, chúng ta được gì, mất gì khi cứ luôn chạy theo những thứ mãi mãi không thuộc về mình, luôn chờ đợi những gì không dành cho mình?
(Xem: 15697)
Tuyết rơi từ vào khuya, mặt trời vừa mọc, tuyết đã ngập trắng vườn sau. Tôi đẩy thêm một khúc củi vào lò. Nhìn lửa bốc ngọn, nhớ lại mấy vần thơ cũ...
(Xem: 18686)
Mộng thân của nó là một đứa bé gái bảy tuổi. Nó nằm trên một cái bè chuối khô chảy ngược dòng trên dòng sông nhỏ. Khung cảnh thật êm đềm với hai hàng cây rủ lá ven sông.
(Xem: 16937)
Không biết Linh đã chạy qua bao nhiêu quãng đường, bao nhiêu dãy phố… khi tiếng rao đêm vẫn còn văng vẳng, cho đến lúc mọi hoạt động đều ngưng bặt...
(Xem: 18108)
Đã mấy canh giờ đi qua, vị sư già xả thiền với tiếng tằng hắng khẽ, Ngài không hề ngạc nhiên về sự hiện diện của người khách lạ trong am cốc.
(Xem: 17520)
Bình thức giấc, ngạc nhiên thấy mình nằm ngủ trong nhà thằng Phi. Chưa kịp nghĩ gì thì mùi thức ăn xộc thẳng vào mũi làm nó nghe dạ dày nhói lên quặn thắt.
(Xem: 17510)
Vậy là sau bốn năm lăn lộn ở chốn phố thị phồn hoa này, cuối cùng thì Hải cũng đã trở về quê, một chuyến về ngoài dự kiến.
(Xem: 17473)
Cầu xin quả tốt lành mà không chịu gieo nhân tốt lành, sợ hãi quả xấu, sợ hãi tai họa xảy đến, mà không dừng tay tạo nhân xấu, sự cầu xin ấy chỉ là việc hoang tưởng.
(Xem: 17357)
Niềm hạnh phúc lớn nhất trong đời tôi chính là giây phút đầu tiên tôi đặt chân vào tòa nhà chánh Pháp. Một luồng rung cảm lâng lâng niềm hỷ lạc...
(Xem: 16571)
Trên đường trở về nhà, con gái cứ luôn ngọng ngọng nghịu nghịu hỏi tôi: “Bố ơi, mấy con cá bị người ta bắt đi thật là tội nghiệp!”...
(Xem: 15884)
Tôi thấy một sự thinh lặng trong một khu vườn thiền, zen garden, ngay gọn không tì vết. Tôi thấy sự thinh lặng nơi một kệ sách với những quyển sách thẳng hàng...
(Xem: 18192)
Từ lâu, tình thương là chất liệu ngọt ngào không thể thiếu trong cuộc sống của con người. Chất liệu đó đã là nhịp cầu nối tâm linh...
(Xem: 15261)
Trời bắt đầu vào thu với những ngày mưa thường xuyên hơn. Không gian se lạnh về theo những ngày nhiều mây và len sang cả những ngày có nắng.
(Xem: 16266)
Ái dụcyếu tố quan trọng đưa đến luân hồi sanh tử trong cõi Dục này. Chúng sanh đã đầu thai vào cõi Dục nghĩa là nghiệp ái dục rất nặng.
(Xem: 16713)
Tôi đã từng lên chùa Ông Núi. Nghe chuyện người tu hành ngày xưa thấy rõ là bậc chân tu. Và thêm một lần nữa, tôi yêu mến những ngôi chùa trên núi.
(Xem: 16108)
Ngay từ khi Thế Tôn còn hiện hữu giữa cuộc đời, những vị Tỳ-kheo đã từng được diện kiến đức Thế Tôn trong những buổi pháp thoại tại tịnh xá Kỳ Hoàn, hay tịnh xá Trúc Lâm.
(Xem: 17649)
Với nhãn căn, chỉ mở mắt ra là lập tức thấy cảnh vật quanh ta, có hoa là thấy hoa, có bướm là thấy bướm, không cần vận dụng một suy nghĩ quanh co nào.
(Xem: 15039)
Cà phê chậm rãi nhỏ giọt, cái màu đen đặc sánh gợi một nỗi đau nhưng nhức. Bản Serenat của F.Schubert từ góc quán cất lên, bản nhạc mà thời còn đi học anh rất thích.
(Xem: 16507)
Con sông Ni Liên Thiền, tên gọi đó đã gắn liền với sự chứng đắc của một bực Thánh nhân xuất thế - Thái tử Tất-đạt-đa, Người đã đến bên dòng sông này sau sáu năm tu khổ hạnh.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant