Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính Viên Mãn Vốn Sẵn Trong Kinh Hoa Nghiêm

31 Tháng Mười 201510:23(Xem: 9435)
Tính Viên Mãn Vốn Sẵn Trong Kinh Hoa Nghiêm

TÍNH VIÊN MÃN VỐN SẴN TRONG KINH HOA NGHIÊM

Nguyễn Thế Đăng


Tính Viên Mãn Vốn Sẵn Trong Kinh Hoa Nghiêm

Tính viên mãn vốn sẵn là một chủ đề chính trong kinh Hoa Nghiêm. Sự viên mãn vốn sẵn có này biểu hiện khắp cả vũ trụ, trong thế giới vĩ mô và thế giới vi mô.

1. Viên mãn vốn sẵn của thế giới vĩ mô

Thế giới là sự biểu hiện, thị hiện sự viên mãn vốn sẵn cùng khắp:

Như Lai cảnh giới không ngằn mé
Thế gian niệm niệm đều hiện khắp
Tất cả sắc hình đều hóa hiện
Mười phương pháp giới đều đầy khắp.

                   (Phẩm Thế chủ Diệu Nghiêm, thứ 1).

Bản chất của thế giới là thân Phật, sự viên mãn vốn sẵn khắp cả:

Thấy thân chân thật của Như Lai
Cũng thấy tất cả những thần biến
Hoặc người thấy được Phật pháp thân
Vô đẳng vô ngại đều cùng khắp
Bản tánh tất cả vô biên pháp
Đều trong thân ấy không thừa sót.
Hoặc người thấy Phật diệu sắc thân
Quang minh sắc tướng đều vô biên
Tùy các chúng sanh hiểu chẳng đồng
Trong mười phương đều hiện biến khắp
Công đức Như Lai chẳng thể lường
Đầy khắp pháp giới không ngằn mé

                   (Phẩm Thế chủ Diệu Nghiêm, thứ 1).

Với người tâm thanh tịnh thì thấy thân Phật sung mãn khắp thế giới vĩ mô. Tâm thanh tịnh tới đâu thì thực tại viên mãn vốn sẵn hiện ra đến đó.

“Thân Phật sung mãn tất cả thế giới… Tất cả chư Phật đồng một pháp thân, thân cảnh giới vô lượng, thân công đức vô biên, thân thế gian vô tận, thân tam giới bất nhiễm, thân tự tánh các pháp một tướng vô tướng… thân phổ biến pháp giới, thân tất cả công đức, thân Chân Như chứa tất cả Phật pháp, thân trụ khắp tất cả pháp giới thanh tịnh” (Phẩm Phật bất tư nghì pháp, thứ 33).

Trước một pháp giới viên mãn vốn sẵn như vậy, các căn được chuyển hóa thành thanh tịnh, không còn làm nô lệ cho các tướng sanh tử mà là để thấy, nghe, nếm, ngửi, xúc chạm, và nghĩ pháp giới Phật đang hiện tiền trước mắt.

2. viên mãn trong thế giới vi mô

Một hạt bụi bao hàm thế giới mà không lớn thêm, vì một hạt bụi không có trung tâm và biên bờ.

Trong một vi trần nhiều biển cõi

Chỗ nơi riêng khác đều nghiêm tịnh

Vô lượng như vậy vào một cõi

Mỗi mỗi phân biệt không xen tạp…

Trong mỗi trần có vô lượng quang

Chiếu khắp mười phương các cõi nước

Đều hiện chư Phật hạnh giác ngộ

Tất cả biển cõi vô sai biệt…

Trong mỗi vi trần tam thế Phật

Tùy chỗ sở thích đều khiến thấy

Thể tánh không đến cũng không đi

Khắp cả thế gian do nguyện lực.

                   (Phẩm Thế giới thành tựu, thứ 4).

Một vi trần có đủ pháp giới, như vậy toàn thiện viên mãn như chính pháp giới.

Thấy trong mỗi vi trần

Tất cả cõi tam thế

Cũng thấy biển chư Phật

Và tạng trí các ngài.

                   (Phẩm Thập địa, thứ 26).

Pháp giới đầy đặc chư Phật, trong tất cả hiện hữu, thậm chí nhỏ nhất như đầu lông:

Nơi một đầu lông thấy chư Phật

Tất cả pháp giới cũng đều vậy.

                   (Phẩm Thập hạnh, thứ 21).

Một không gian nhỏ nhất, một đầu lông, chứa tất cả thời gian, vô lượng kiếp. Và một thời gian nhỏ nhất, một niệm, chứa tất cả không gian, vô biên cõi nước, chư Phật và chúng sanh:

Nơi một đầu lông vô lượng cõi

Phật, chúng sanh, kiếp, bất khả thuyết

Thấy rõ như vậy đều cùng khắp

Lầu này của bậc Vô Ngại Nhãn.

Một niệm nhiếp khắp vô biên kiếp

Cõi nước, chư Phật và chúng sanh

Trí huệ vô ngại đều chánh biết

Lầu này của bậc Đủ Đức ở.

                   (Phẩm Nhập pháp giới, thứ 39).

Một vi trần chứa tất cả không gianthời gian, một khoảnh khắc hay một niệm nhiếp tất cả thời giankhông gian. Đây là sự viên mãn vốn sẵn của vi trần và khoảnh khắc.

3. Tu hành là thấy cái viên mãn có sẵn

Trước “Như Lai cảnh giới” vốn viên mãn và sẵn có như vậy, tu hành không phải là tạo tác ra một cái gì, mà là tùy thuận theo để thấy thực tại ấy. Trong ý nghĩa này mà kinh nói “không chỗ tu hành”:

“Vì Bồ-tát biết rõ các pháp ba thời bình đẳng, như như bất động, thật tế vô trụ. Cũng tự biết rõ không chỗ tu hành, không có chút pháp gì hoặc sanh hoặc diệt mà có thể được”. (Phẩm Ly thế gian, thứ 38).

Các pháp ba thời bình đẳng, như như bất động, nên kinh nói “tất cả các pháp tánh tướng thanh tịnh”:

“Vì tất cả pháp bản tánh thanh tịnh, gọi đó là Niết-bàn, thì đâu có sự chán mỏi trong ấy… Biết tất cả pháp đều là Phật pháp, biết tất cả pháp đều là pháp xuất thế gian, xa lìa tất cả vọng tưởng điên đảo. Dùng sự trang nghiêm của nhất thể để tự trang nghiêm mà không chỗ trang nghiêm”. (Phẩm Ly thế gian, thứ 38).

“Tất cả đều là Giác” (Kinh Viên Giác, chương Bồ-tát Phổ Nhãn), tất cả thế giới, chúng sanh, các pháp đều là Phật pháp. Đây là điều mà Mật giáo về sau biểu trưng trong một Mạn-đà-la.

“Nơi tất cả chúng sanh tưởngcăn khí giác ngộ, nơi tất cả pháp tưởng là Phật pháp”. (Phẩm Ly thế gian, thứ 38).

Những câu kinh được trích ở trên lấy từ phẩm Ly thế gian, cho chúng ta thấy lìa thế gian không phải là từ bỏ thế gian, mà Bồ-tát lìa thế gian bằng cách nhìn thấy thực tướng của thế gian bằng cái thấy biết của Phật:

“Biết tất cả cõi, tất cả pháp, tất cả chúng sanh, tất cả thời, là cảnh giới của Phật trí, được pháp nhiếp trì”. (Phẩm Ly thế gian, thứ 38).

Trí huệ ba-la-mật là nhìn thấy cảnh giới Phật nhưng không phải do lìa sắc thanh:

Trí huệ đến bờ kia

Mới thấy cảnh giới Phật

Sắc thân chẳng phải Phật

Âm thanh cũng chẳng phải

Nhưng chẳng lìa sắc thanh

Mà thấy thần lực Phật.

                   (Phẩm Đâu-suất kệ tán, thứ 24).

Tất cả pháp tánh tướng thanh tịnh:

“Đại Bồ-tát nói pháp: tất cả pháp giống như kim cương, tất cả pháp thảy đều như như, tất cả pháp đều trụ một nghĩa vốn toàn thiện viên mãn”. (Phẩm Ly thế gian, thứ 38).

Chính vì nghĩa này mà kinh nói, “Có quyển sách lớn bằng Đại thiên thế giới ghi chép hết tất cả mọi sự trong Đại thiên thế giớihoàn toàn ở trong một vi trần. Như một vi trần, tất cả các vi trần cũng đều như vậy”. (Phẩm Như Lai xuất hiện, thứ 37).

Tu hành là thấy và đọc được quyển sách đó. Tu hành là thấy nội dung, ý nghĩa của mỗi vi trần và mỗi khoảnh khắc. Tu hành là như Đồng tử Thiện Tài, đi trong thế gian để thấy pháp giới:

Tâm đó thanh tịnh không chỗ nương

Dầu quán pháp sâu mà chẳng chấp

Tư duy như vậy vô lượng kiếp

Ở trong ba thời không bám trước.

Tâm đó kiên cố khó cản ngăn

Đến giác ngộ Phật không chướng ngại

Chí cầu diệu đạo trừ lầm mê

Đi khắp pháp giới không khổ nhọc.

Biết pháp ngữ ngôn đều tịch diệt

Chỉ nhập Chân Như tuyệt dị giải

Cảnh giới chư Phật đều thuận quán

Đạt nơi ba thời tâm vô ngại.

Bồ-tát mới phát tâm rộng lớn

Có thể qua khắp mười phương cõi

Pháp môn vô lượng không thể nói

Trí quang chiếu khắp đều sáng tỏ.

Đại bi rộng độ rất không sánh

Từ tâm cùng khắp đồng hư không

Mà với chúng sanh chẳng phân biệt

Thanh tịnh như vậy đi thế gian.

                   (Phẩm Sơ phát tâm công đức, thứ 17). Văn Hóa Phật Giáo số 234

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2057)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2247)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2516)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2547)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 2080)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2533)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1869)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1964)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2248)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2776)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1689)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1608)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1794)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1630)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 2203)
Nếu một người có nghị lực, tâm trí, trong sáng trong suy nghĩ, lời nóiviệc làm một cách cẩn trọngcân nhắc, kiềm chế các giác quan của mình, kiếm sống theo Luật (Dhamma) và không vô tâm, thì danh vọng và tài lộc của người có tâm đó đều đặn tăng lên.
(Xem: 2361)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ Đức Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo:
(Xem: 2069)
Hạnh “bố thí” là một trong sáu hạnh của Bồ-tát làm phương tiện đưa đạo vào đời, đem lại niềm vui và xoa dịu nỗi đau của chúng sanh.
(Xem: 1857)
Từ nơi cao rộng mới thấy bao quát toàn cảnh bên dưới. Nào là núi, nào là rừng. Núi xa thì màu nhạt đi, núi gần thì sậm màu đất đá. Rừng thưa thì thấy cả những đường mòn quanh co xuyên qua các thảm lá mục và những tảng đá phong rêu; rừng sâu thì chỉ xanh một màu lá.
(Xem: 1779)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1967)
Người xưa thường nói: “Chúng ta chỉ có thể kiểm soát được hành động, nhưng không thể kiểm soát được kết quả” Xin Hãy Buông Gánh Nặng Xuống.
(Xem: 1702)
Dù những vật hữu tình hay vô tình đều có cội nguồn hình thành, lá rụng về cội, nước chảy về nguồn.
(Xem: 2674)
Khi bàn về cái tôi, người ta thường nói hóm hỉnh rằng: trong cuộc sống, cái tôi mà thệm dấu nặng thì thành TỘI; cái tôi huyền thì thành TỒI; và cái tôi sắc thì thành.. TỐI.
(Xem: 1839)
Muốn đi vào con đường giải thoát an vui thì phải đi qua con đường vô ngã, phải giải trừ, phải giảm nhẹ tình chấp ngã, không đường nào khác.
(Xem: 2175)
Tôi chưa từng chứng kiến sự ra đi của bất cứ ai. Trước khi mẹ tôi trở nên quá yếu, tôi chưa từng thấy ai bệnh nặng cả.
(Xem: 2140)
xuất gia hay tại gia, giàu hay nghèo, nam hay nữ, trẻ hay già cũng đều phải biết điều tiết, chế ngự tâm mình.
(Xem: 2477)
Có người nói tu không cần học Phật Pháp cũng được, chỉ cần học một pháp môn nào đó rồi chuyên tu pháp môn đó thì kết quả còn tốt hơn học nhiều pháp môn mà không chuyên tu.
(Xem: 1796)
Phật tử, chúng ta phải hằng ngày tự thân tu tập, tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền để tự cải tạo tâm mình theo hướng chân, thiện, mỹ.
(Xem: 1984)
Đừng đặt nặng vấn đề sống, chết. Đừng nghĩ đến điều đó. Chỉ cần thanh lọc tâm trí của bạn, thì điều đó sẽ an bài tất cả mọi thứ.
(Xem: 1862)
Trụ là ở chùa; Trì là gìn giữ trông nom chùa. Nghĩa là đối với sự uỷ thác của thập phương tín thí, nhân dân sở tại phải hết tâm, hết sức.
(Xem: 2037)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 2607)
Quốc gia nào cũng vậy, bên cạnh những cái đẹp vẫn có cái xấu. Nếu cái tốt nhiều, cái xấu ít thì không đáng lo ngại.
(Xem: 3659)
Trong cuộc sống thường ngày có nhiều người rất dễ rơi vào tình trạng đau khổ, bởi vì có quá nhiều áp lực, nhiều gánh nặng, nhiều ưu tư, nỗi buồn trong lòng.
(Xem: 2282)
Những thành bại, được mất, hơn thua, tranh đoạt, tham vọng và thù hận v.v… sẽ chẳng có giá trị gì nếu như gần kề với cái chết.
(Xem: 2289)
Theo Thế Tôn, người tu mà không có lòng tin thiện pháp là một biểu hiện của bần cùng.
(Xem: 1664)
Cây phong đầu ngõ đã dần dần chuyển sắc lá. Lá vàng chen lá xanh. Lác đác vài chiếc lá phong chỉ mới úa vàng đã rơi quanh gốc, không theo tiến trình sinh trụ hoại diệt của thiên nhiên.
(Xem: 1977)
Các vị thiền sư tu tập theo pháp Phật khẳng định rằng tuy tâm khônghình dáng nhưng chúng ta có thể phân biệt được lúc nào tâm khỏe mạnh và lúc nào tâm bệnh hoạn.
(Xem: 2312)
Hôm trước, tôi có chia sẻ một phương cách để đối trị vọng tưởng, tâm chạy đi lang thang chỗ này chỗ kia bằng cách...
(Xem: 2307)
Khi có một điều không may mắn, bất như ý xảy đến thì đa phần chúng ta đều nghĩ và thậm chí đổ lỗi là do nghiệp.
(Xem: 2151)
Buông bỏ tất cả để tu hành vốn không bị xem là ích kỷ, thậm chí đó là cao thượng nhưng rũ bỏ trách nhiệm trước một thực trạng gia đình ngổn ngang là không thể chấp nhận, đáng bị phê phán.
(Xem: 3108)
Pháp luân nghĩa là bánh xe Phật pháp. Dhamma trong tiếng Pali (Nam Phạn) có nghĩa là Pháp Bảo, lời dạy từ Đức Phật.
(Xem: 2126)
Nghiệp nói cho đủ là nghiệp quả báo ứng, tức đã gây nhân thì có kết quả tương xứng, và quả đến sớm hay muộn khi hội đủ nhân duyên, hội đủ điều kiện.
(Xem: 2518)
Đây là một lời dạy phù hợp với cái nhìn sâu sắc cốt lõi của Phật giáo: rằng chúng ta đau khổ bởi vì chúng ta tin rằng chúng ta có một cái tôi.
(Xem: 2046)
Một nhóm sinh viên đến chùa để tìm hiểu về đạo Phật và kiến trúc chùa nhằm phục vụ cho chương trình học. Có một em tự giới thiệu mình là tín đồ của đạo Thiên Chúa.
(Xem: 1979)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”
(Xem: 2183)
Đời người như một giấc chiêm bao, sinh-lão-bệnh-tử là điều hiển nhiên không ai tránh khỏi, cuối con đường bóng xế ngả chiều ta rời bỏ nơi đây với bàn tay không.
(Xem: 2472)
Đức Phật không phải là một vị Thượng đế, vậy thì tại sao giáo huấn của Ngài là một tôn giáo và tại sao Phật tử tôn thờ Ngài như Thượng đế?
(Xem: 2038)
Xưa nay, nhân loại vẫn mơ ước một thứ ngôn ngữ chung, một thứ ngôn ngữ trực tiếp phản chiếu và thông diễn mọi sắc thái của thực tại sống động
(Xem: 2441)
Giáo pháp tứ y trong đạo Phậtgiáo pháp nói về bốn phương pháp thực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ giải thoát.
(Xem: 2402)
Giáo pháp của Đức Phật tuyên thuyết là một sự trải nghiệm sinh động mang tính ứng dụng rất thiết thực chứ không phải là những giáo thuyết
(Xem: 2984)
Duyên khởi cho bài viết này là từ một bản tin BBC News có nhan đề “Thiền định chánh niệm có thể khiến con người xấu tính đi?”— và từ một số cuộc nghiên cứu khác đã giúp chúng ta có cái nhìn đa diện hơn về Thiền chánh niệm, một pháp môn nhà Phật đang thịnh hành khắp thế giới.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant