Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Luật Học, Mấy Vấn Đề Nhìn Lại

05 Tháng Mười Một 201509:24(Xem: 8395)
Luật Học, Mấy Vấn Đề Nhìn Lại
LUẬT  HỌC – MẤY VẤN ĐỀ NHÌN LẠI

Thích Hải Tạng
 

Luật Học, Mấy Vấn Đề Nhìn LạiTrong lời tựa của sách YẾT MA YẾU CHỈ, Cố Hòa thượng Thích Trí Thủ đã viết: “Theo quan điểm Bộ phái Đàm Vô Đức, tức các vị thọ trì luật Tứ Phần, thì một trong các dấu hiệu về sự diệt tận của Chánh pháp là các pháp yết- ma hoàn toàn không được thực hiện, không có pháp yết- ma sẽ không có các Tỳ-kheo đắc giới  như pháp, bản thể của Tăng không thành tựu. Không có sự tồn tại của Tăng thì Chánh pháp mà Phật giảng dạy sẽ không có người tu và chứng. Như vậy có nghĩa là Chánh pháp sẽ không tồn tại. Cho nên, việc học hỏi các học xứ trong giới kinhthông suốt các pháp yết-ma là phận sự hàng đầu của các Tỳ kheo trong suốt 5 năm đầu kể từ khi đắc giới Cụ túc. Đây là điều kiện căn bản tác thành tư cách bậc Thầy hàng Thượng tọa trong Tăng chúng. Nếu Tỳ-kheo không hoàn tất phận sự học hỏi nầy, thì không bao giờ được phép rời Y chỉ sư, dù cho tuổi đời 80 và tuổi hạ 60, nghĩa là luôn luôn phải sống nương tựa vào bậc Thượng tọa, không được phép thế độ người xuất gia. Đây là điều quy định trong tất cả Luật tạng, cần phải nghiêm túc chấp trì vì sự tồn tại bền vững của phật pháp”.

Những lời dạy đầy tâm huyết và quyết đoán trên đây của một vị Luật sư, bậc Thầy nổi tiếng của chúng ta đã khuất bóng cách đây chưa lâu, quả thật là một lời nhắc nhủ mà những vị Tỳ-kheo nào có ý thứctinh thần tự trọng đều phải tự nhìn lại chính mình và phải để tâm vào Luật học. Thế nhưng việc chấp trì và xiển dương Luật học như thế nào để tạo được niềm tin cho đàn hậu học, mọi quyết nghị của Tăng phải có y cứ vào Luật tạng. Nếu không, khi thực hiện các Tăng sự, mỗi vị Luật sư tự ý thêm bớt hoặc thay đổi theo ý mình, khiến cho việc tác pháp Yết ma chỉ còn là chiếu lệ, không toát lên được cái uy lực của Tăng, từ đó cái không khí thiêng liêng, sinh động của Tăng sự cũng bị suy giảm. Dẫu biết rằng “phương tiện tùy nghi, vô thi bất khả”, nhưng tùy nghi mà không có cơ sở, e rằng sẽ không khỏi tạo nên một tiền lệ kéo theo những hệ quả khó lường, khi mà Luật học mỗi ngày càng bị lớp hậu sinh xao lãng, thực hành một cách lỏng lẻo, thiếu nghiêm túc. Dưới đây là những chia sẻ trong dòng suy nghĩ ấy.

I . Phải chăng ý nghĩagiá trị của Tứ Thánh chủng không còn thiết thực nữa đối với đời sống của một vị Tỳ Kheo trong thời đại ngày nay ?

Căn cứ vào sách Đại Học Hoằng Giới Chi Thư, một quyển sách được xem như là cẩm nang cho các nghi tắc truyền giới của Tăng mà tôi thấy các Ngài Luật sư trước đây thường cầm trên tay, để trước mặt mỗi khi ngồi vào giới trường để truyền giới Cụ túc, thì sau khi bạch tứ Yết-ma thành tựu, các vị tân Tỳ-kheo sẽ được Giới sư truyền pháp Tứ khí, đến pháp Tứ y và sau đó mới truyền y, bát ngọa cụ v.v…Sách Yết-ma yếu chỉ (Hòa thượng Thích Trí Thủ giảng thuật, Tỳ kheo Thích Đổng Minh, Tỳ-kheo Thích Nguyên Chứng soạn tập), Luật Tứ phần (HT. Thích Đổng Minh việt dịch, TK. Thích Nguyên Chứng và Thích Đức Thắng hiệu đính & chú thích), Luật Ngũ Phần (HT. Thích Đổng Minh việt dịch),

 

                                                          - 1 -

Luật Học Tinh Yếu (HT. Thích Phước Sơn)… tất cả đều thống nhất giống nhau một pháp thức như thế. Nhưng rất tiếc trong một số giới đàn gần đây, khi mà các vị Luật sư bậc thầy trên đây đã viên tịch, thì Pháp Tứ Y đã bị loại bỏ mà thay vào đó thì truyền Bốn pháp cần làm của Sa môn, đó là:

1)   Bắt đầu từ ngày nay đến suốt đời, nếu có người mắng, quý vị không được mắng lại.

2)    Bắt đầu từ ngày nay đến suốt đời, nếu có người giận, quý vị không được giận lại.

3)   Bắt đầu từ ngày nay đến suốt đời, nếu có người đùa giễu, quý vị không nên đùa giễu lại.

4)   Bắt đầu từ ngày nay đến suốt đời, nếu có người đánh, quý vị không nên đánh lại.

Trong khi đó, theo các bộ luật trên đây, thì pháp Tứ Y là:

1)   Tỳ kheo sống nương tựa vào y phấn tảo; nương theo đó mà xuất gia, mà thọ Cụ túc giới, thành phẩm chất Tỳ-kheo. Ngươi phải trọn đời thọ trì điều nầy. Trường hợp đặc biệt được phép thọ dụng y do đàn việt cúng dường, y đã được cắt rọc hay hoại sắc.

2)   Tỳ kheo sống nương tựa vào sự khất thực; nương theo đó mà xuất gia, mà thọ Cụ túc giới, thành phẩm chất Tỳ-kheo. Ngươi phải trọn đời thọ trì điều nầy. Trường hợp đặc biệt được thọ dụng, là Tăng sai thọ thực, hay đàn việt cung cấp các bữa ăn định kỳ mỗi tháng các ngày mồng một, mồng tám, ngày rằm, hoặc các bữa ăn thường của Tăng, hay đàn việt thỉnh mời.

3)   Tỳ kheo sống nương tựa vào dưới gốc cây mà ngủ nghỉ; nương theo đó mà xuất gia, mà thọ Cụ túc giới, thành phẩm chất Tỳ-kheo. Ngươi phải trọn đời thọ trì điều nầy. Trường hợp đặc biệt được thọ dụng là một căn phòng riêng biệt, một ngôi nhà góc nhọn, một căn phòng nhỏ, một hang đá hay hai căn phòng có chung một cửa.

4)   Tỳ kheo sống nương tựa vào các loại thuốc hủ lạn; nương theo đó mà xuất gia, mà thọ Cụ túc giới, thành phẩm chất Tỳ-kheo. Ngươi phải trọn đời thọ trì điều nầy. Trường hợp đặc biệt được thọ dụng là tô, sanh tô, đường phèn và mật

Khi được chia sẻ điều nầy, có nhiều vị đã nói rằng : “Bây giờ không có Tỳ kheo nào dùng y phấn tảo, cũng không có vị nào đi khất thực, không còn ai phải ngủ dưới gốc cây, cũng như khi đau ốm mà dùng hủ lạn dược, nên truyền bốn Pháp cần làmthiết thực hơn”.

         Tôi thật sự phân vân, không hài lòng nếu không muốn nói là buồn man mác khi nghe cách giải thích như vậy! Đành rằng, ngày nay không còn ai phải đi lượm từng miếng giẻ rách về giặt, nhuộm và may thành y để mặc như các vị Tỳ-kheo dưới thời Phật còn tại thế, nhưng có nên chăng, vì có tín đồ cung phụng đầy đủ mà đã có không ít những vị Tỳ-kheo y hậu đụng đâu vất đấy, khi

 

                                                            - 2 -

rời khỏi trú xứ cũng chẳng mang theo y, nếu cần thì bây giờ có rất nhiều cửa hàng bán pháp phục Tăng Ni, bảo một tiếng là tín đồ chạy đi mua ngay, có sẵn. Hoặc đã có nhiều vị mua sắm hàng chục bộ y hậu gấm vóc đắt tiền, đủ màu đủ sắc để chưng trong tủ kính sang trọng với đầy vẻ tự hào…? Trong những trường hợp như thế, thiết nghĩ việc nhấn mạnh về điều căn bản của một vị Tỳ-kheo là phải trọn đời nương vào y phấn tảo, cũng là lời cảnh tỉnh để cho họ khởi tâm biết tàm quý, bớt sự phóng dật, thì đâu phải là điều vô ích !

Đành rằng, ngày nay Tu sĩ Bắc tông không còn ai phải trì bình đi khất thực, nhưng chí ít mỗi bữa ăn cũng còn phải biết duy trì phép tam đề, ngũ quán, để tự nhắc nhủ mình còn nặng nợ áo cơm của tín thí thập phương, để tự sách tấn tu tập, thì ý nghĩa y khất thực đối với một vị Tỳ-kheo đâu phải là vô bổ, không thiết thực!

Đành rằng, ngày nay không còn có vị Tỳ-kheo nào phải ngồi dưới gốc cây để ngủ nghỉ, nhưng nhắc lại phẩm chất Tỳ-kheo là phải y thọ hạ, ít ra cũng hạn chế được tình trạng những vị Tu sĩ mà sống quá xa hoa, phù phiếm, hưởng thụ những vật dụng, tiện nghi cá nhân một cách quá đáng, khiến cho thế nhân mỉa mai, ngoại đạo hủy báng…; đó không phải là điều thiết thực hay sao !

Còn điều y hủ lạn dược, tôi nghĩ, chính là để nhắc nhủ cho chúng ta, những người xuất gia đệ tử Phật, tuy biết rằng ngũ uẩn giai không nhưng khi tứ đại bất điều, thì cũng phải dùng thuốc chữa trị chứ không xem thường mạng sống. Ý nghĩa quan trọng hơn nữa, đó là tuy chữa bịnh trong hoàn cảnh y tế phát triển của xã hội ngày nay, nhưng đã là vị Tỳ-kheo thì cũng phải biết khiêm tốn, khắc kỷ, tri chỉ, tri túc; chứ không phải vì lắm bạc nhiều tiền mà học đòi vương giả, vào bịnh viện cũng tự cho mình là quan trọng hơn, mong được ưu tiên mọi thứ tiện ích như các đại gia, cán bộ cao cấp, hay những ông hoàng bà chúa đương thời; thật đáng hỗ thẹn nếu biết nhớ nghĩ lại những phẩm chất chân chính của một vị Tỳ kheo !

Do đó, Pháp tứ y còn được gọi là Tứ Thánh chủng, là những chất liệu cơ bản để nuôi lớn hạt giống Thánh, hay nói cách khác, đó chính là những yếu tố cơ bản để thành tựu phẩm hạnh một vị Tỳ-kheo, những người có khả năng nối tiếp dòng giống Phật. Vị Tỳ-kheo nào sống theo pháp Tứ y tức là có đời sống thanh tịnh, tức có chánh mạng; có đời sống ly dục. Chính bởi ý nghĩa nầy mà giới Tỳ-kheo còn được gọi là Cụ túc, vì nó thể hiện trọn vẹn mẫu mực đời sống của một Thánh giả A la hán. Vì thế mà các vị Luật sư chân chính đều cho rằng : “Trong bất kỳ thời điểm nào, xã hội nào, chân dung của người Tu sĩ cũng vẫn là như thế. Bốn tiêu chuẩn được gọi là Tứ Thánh chủng nầy, bất kỳ một hành giả nào mang hoài bảo nhiếp độ hàm linh, thành tựu quả vị tối thượng, thì nhất định không được sống xa rời những tiêu chuẩn đó.” (trích Theo Dấu Chân Xưa – HT. Thích Minh Thông). Tiếc thay những ý nghĩagiá trị cao quý nầy, ngày nay đang có dấu hiệu bị chối bỏ !

                                                  - 3 -

II – Việc chấp trì Bát Kỉnh Pháp

Kinh Luật ghi lại rằng, khi đức Thế Tôn còn tại thế, Bà Đại Ái Đạo cùng với 500 Xá di vì cảm mộ Phật pháp nên đã tự nguyện cạo tóc, đến đứng ngoài cửa, ngữa mặt chấp tay, ngưỡng trông tinh xá Kỳ Hoàn vô cùng thành khẩn, rồi nhờ Tôn giả A Nan ba phen cầu thỉnh, Đức Phật mới bằng lòng cho nữ giới xuất gia. Nhưng Ngài dạy rằng: Chánh pháp đáng lẽ truyền được 1.000 năm, thì do việc độ Ni sẽ bị giảm còn phân nửa. Tôn giả A Nan nghe vậy liền lo lắng, buồn khóc vì việc xin Phật cho nữ giới xuất gia. Đức Phật bèn dạy : Muốn Chánh pháp khỏi bị suy giảm, thì Ni giới phải tuân sùng Bát kỉnh, cung phụng Tam tôn. Rồi Ngài bảo A Nan truyền lại, bà Đại Ái Đạo liền cung kính cúi nghe và xin chân thành vâng giữ. Nguyên do Bát Kỉnh Pháp ra đời là từ đó.

Đã vậyngay sau khi đức Thế Tôn thị tịch, Tôn giả A Nan còn bị Trưởng Lão Ca Diếp kết tội: Vì xin  Phật cho người nữ xuất gia nên phạm tội Đột cát la, phải sám hối.

Bát Kỉnh Pháptám phápTỳ kheo Ni phải suốt đời tuân kỉnh. Trong đó, điều thứ tư là: Thức Xoa  Ma Na học giới xong phải thỉnh cầu Tỳ kheo Tăng mà thọ giới Cụ túc.

Do đó, tất cả các bộ luật đều thống nhất ghi: Khi Thập sư Ni tác Bản pháp yết-ma xong, liền ngay trong ngày đó phải đưa các giới tử Ni đến giữa đại Tăng để cầu thọ đại giới, nếu trái tức phạm. Tác Bản pháp yết-ma là chỉ bạch tứ yết ma để hỏi Ni tăng có đều đồng ý cho Thức xoa ma na (tên là a, b …gì đó) thọ Cụ túc giới hay không, chứ không phải là đã trao y, truyền giới gì cả. Có lẽ vì sợ sau nầy sẽ có người nhầm lẫn chỗ đó, nên trong sách Giới Đàn Tăng, Cố HT. Thích Thiện Hòa có ghi mấy điều dặn dò, cụ thểVài điều cần yếu trong khi truyền giới Tỳ kheo Ni : Bên Ni tác Bản pháp yết-ma rồi,còn phải đến trong Tăng để cầu thọ Chánh pháp yết-ma, mới viên thành giới thể. Vì sao ? Nguyên vì Phật chế Chánh pháp quan hệ ở nơi Đại Tăng, nên biết rằng, giới pháp của Tỳ-kheo rất tôn quý, hay vì nhân thiên làm ruộng phúc tốt lành. Cho nên giới thể nầy quyết phải từ Đại tăng mà được. Thấy đó biết rằng, giới thể đã chưa thành thì giới tướng làm sao có được ! Thức-Xoa-ma-na khi được tác Bản pháp yết-ma xong, thì gọi là Bản pháp Ni, khi đến giữa Đại Tăng ba phen cầu xin giới pháp, Đại Tăng bạch tứ yết-ma, tức Chánh pháp yết-ma rồi, Giới sư mới tuyên bố: Bây giờ là mấy giờ.. các vị đã đắc giới Tỳ kheo Ni. Và lời giáo giới tiếp theo sẽ nói là : Nầy các vị Tân Tỳ-kheo Ni; mà không nói là : Thức-xoa-ma na, hay Bản pháp Ni hoặc là giới tử nữa.

Trong Yết-ma Yếu Chỉ (HT. Thích Trí Thủ giảng thuật, HT. Thích Đổng Minh, HT. Thích Nguyên Chứng soạn tập), quý Ngài còn nhấn mạnh rất rõ ràng: Cũng nên nhắc lại rằng, sau khi bạch tứ yết-ma là dứt phần Bản bộ yết-ma của

Tỳ-kheo Ni tăng. Các tiết mục khác như: Truyền tám Ba-La-Di, các Pháp sở ytám Pháp tôn kính, phải do Tăng trong phần Chánh pháp yết-ma làm. Trong                                                              

Bộ Luật Tứ Phần Tỳ-kheo Ni Sao của Tổ Đạo Tuyên trước thuật, HT. Thích Đôn Hậu dịch và giảng cũng dạy y như vậy.                                                                      

                                                               - 4 –

Lời Phật, ý Tổ còn rõ ràng như vậy, không hiểu vì sao trong các giới đàn gần đây, các vị Giới sư Ni đều làm tất tật hết, rồi cho các giới tử Ni đắp y Tỳ-kheo, bưng bình bát qua bên Đại Tăng để cầu giới. Thật khó hiểu là, vì sao các vị Ni đi cầu giới nầy, họ đã “đắc giới”, đã được trao giới tướng, đã khoát y Tỳ-kheo rồi, mà khi vào giữa Đại Tăng lại tự xưng là: Con, Thức-xoa-ma-na…?

Phải chăng, việc làm nầy cho thấy dấu hiệu: Bát Kỉnh Pháp đang dần dần bị bỏ qua, hoặc chỉ thực hành một cách chiếu lệ!

III – Giới Đàn Trang Nghiêm

Đã có một số người hiểu rằng giới đàn trang nghiêm là được trang hoàng công phu lộng lẫy. Điều đó có thể đúng nhưng chưa đủ. Điều quan trọng hơn là khi tổ chức một Giới đàn để truyền giới, nhất là giới Cụ túc, thì một giới đàn trang nghiêm phải thành tựu trọn đủ bốn yếu tố: Giới thành tựu, Sự thành tựu, Tăng thành tựu và Yết-ma thành tựu.

1)   Giới thành tựu: Trước khi tiến hành nghi thức truyền giới, để khỏi mắ lỗi biệt chúng, khiến yết-ma bất thành, thì nhất định Tăng phải kết giới trường để truyền giới. Khi kết giới trường phải xác định rõ giới hạn, hay nói cách khác là phạm vi của giới trường như thế nào là đúng pháp. Cũng theo Yết Ma Yếu Chỉ: Thông thường, tại mỗi trú xứ của Tăng đều có giới trường trong phạm vi đại giới. Giới trường nầy thường là Chánh điện của già lam. Nhưng việc truyền giới là công việc của Tăng, do Tăng chủ trì, nên cần có sự phân biệt Phật và Tăng ở đây. Tức chỗ ngồi của các giới sư được bố trí như thế nào để có sự cách biệt Phật và Tăng thì Tăng pháp mới thành tựu.  Chính vì điều nầy mà các vị Luật sư bậc Thầy trước đây còn  dùng một bức màn, để khi đảnh lễ Tam Bảo xong, vị Dẫn thỉnh sẽ xướng: Cung thỉnh Giới sư tề nghệ giới trường, thì các vị Giới sư bước lùi lại mấy bước mới thăng tòa và ngay sau đó bức màn sẽ được kéo ngang qua, trước khi giới tử vào đảnh lễ Giới sư, chính là để  có sự cách biệt Phật và Tăng, để Tăng pháp được thành tựu. Thế nhưng, việc kết giới trường ngày nay rất tiếc là không được rạch ròi và thường hay lẫn lộn.

2)   Sự thành tựu : Sự ở đây là các già nạn. nghĩa là các giới tử phải được kiểm tra kỹ lưỡng các chướng nạn làm trở ngại cho việc thọ giới.

3)   Tăng thành tựu: Tăng phải đủ túc số là 10 vị Tỳ-kheo thanh tịnh, minh mẫn, thông hiểu giới luật, phải theo dõi sát các pháp thức yết-ma, ngồi không quá xa nhau đến độ vói tay không tới, không ngủ gục, không nhập định hay lần tràng hạt niệm Phật, không được bỏ ra ngoài trong khi Tăng đang tác pháp yết-ma, cho đến nếu có người có thần thông cũng không được bay lên khỏi mặt đất. Nếu không như thế thì yết-ma bất thành.

4)   Yết ma thành tựu: Thường thì vị Yết-ma sư phải là người thông hiểu giới luật, quán xuyến chúng Tăng, để khi tiến hành tác pháp không vấp phải các lỗi đến nỗi yết-ma bất thành. Yết-ma bất thành chính là tác phạm vậy. Uy lực của pháp yết-ma cao hay thấp là ở vị bỉnh pháp nầy.                                                   

                                                       - 5 -

                                                

Căn bản để giới đàn được trang nghiêm, thành tựu là như vậy. Nhưng  điều khó khăn ở đây là ngày nay các giới đàn tuyển chọn giới tử cốt là ở số lượng. không khảo hạch kỹ càng đúng như danh nghĩa “tuyển người làm Phật”. Giới tử thì yếu kém mà lại quá đông, trong khi các Giới sư tuy cao đức nhưng phần lớn là già yếu lại nhiều bịnh, ngồi lâu rất khó khăn, mệt mỏi; phần nhiều là tiến hành tác pháp từ 4 giờ sáng cho đến trưa, thậm chí quá trưa. Đã có nhiều vị Tôn chứng sư phải bỏ cuộc nửa chừng để đi giải lao, vị thì ngồi yểu xiểu…! Còn thầy Yết-ma thì vì áp lực thời gan nên làm nhanh, nhiều khi hỏi mà không đợi giới tử trả lời, việc quan trọng mà yết ma thì lại vắn tắc, như nói : Yết-ma lần thứ 2 cũng như trên có thành không? Yết-ma lần thứ 3 cũng như trên có thành không? v.v…

Tôi còn nhớ, các vị Luật sư trước đây thường dạy: Trước khi tiến hành tác pháp yết-ma, vị Bỉnh pháp phải đưa mắt nhìn khắp trong chúng để xem thử Tăng có dấu hiệu phi tướng hay không. Như Tăng đang ngồi tác pháp mà có một vị quỳ lên, đứng dậy, đi tới, đi lui, hay có người không phải trong túc số Tăng mà có mặt trong giới trường v. v…thì không tác pháp được.

Đến khi hỏi : Vị Trưởng lão nào chấp thuận, Tăng cho Sa-di….. thì im lặng, Ai không chấp thuận thì hãy nói ra . Đây là yết-ma lần thứ nhất. Khi ấy, vị Yết-ma phải dừng lại trong giây lát, đưa mắt nhìn khắp chúng tăng, ý là để xem thử trong Tăng có vị nào có ý kiến hay không, nếu thấy tất cả đều im lặng, khi ấy mới lấy biểu quyết: Yết-ma có thành không ? Cho đến lấy biểu quyết của Tăng lần thứ hai, rồi lần thứ ba cũng đều như thế. Đây là điểm sắc sảo, sinh động, uy nghiêm, như một vị quan tòa đưa ra phán quyết một cách rất cẩn thậnnghiêm minh. Mỗi một lần hỏi, vị thầy Yết-ma cất lên giọng nói sang sảng, rạch ròi, mạch lạc và dứt khoát; và tiếng đáp “thành” đồng loạt được vang lên từ chúng Tăng, kết thúc là tiếng thủ xích của vị thầy Yết-ma vỗ xuống, tất cả những âm thanh ấy, cảnh tượng ấy, như dội vào trong tâm thức của người giới tử đang chí thành cầu giới, khiến cho vô tác giới thể được sinh khởi trọn đầy. Tiếc thay, cái sinh khí trang nghiêm, sinh động và đầy uy lực ấy giờ đây hiếm thấy. Không phải vì các vị Luật sư bây giờ không biết, không làm được, mà chính là do áp lực thời gian quá lớn; phần vì sức khỏe của quý Ngài không có đủ để ngồi thực hiện một buổi lễ với thời gian dài như vậy. Suy nghĩ đến đây mới thấy băn khoăn rằng,  những người nắm giữ kỷ cương cho Luật học, rồi đây sẽ là một khoảng trống không nhỏ !

                                                     

                                               Chùa Long An, Tiết Lập Thu năm Ất mùi – 2015

                                                                Tỷ kheo Thích Hải Tạng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13732)
Mưa thật nhiều suốt đêm qua, những ánh chớp loé sáng, vẫy vùng trên bầu trời như rượt đuổi nhau với những nụ cười sáng rực. Mưa trút xuống dù không mời gọi, như réo rắc...
(Xem: 13897)
Trăng thì vằng vặc trên cao, trên bầu trời, sáng đẹp. Nhưng, trăng của tấm lòng, của chân tâm, thật là gần gũi, bình dị, trong sáng, thanh tịnh, không một gợn sóng mây...
(Xem: 14367)
Thuở xưa, khi Phạm Dự (Brahmadatta) là vua nước Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh vào đời làm một chú Linh Dương sống trong một bụi cây gần bên hồ nước ở trong cánh rừng.
(Xem: 15162)
Trong học tập cũng như trong công việc, lười biếng, thiếu ý chí, thiếu kiên định là những nguyên nhân đưa đến sự thất bại. Khó tìm đâu trên cõi đời này một người có được thành công mà người đó là một kẻ lười biếng...
(Xem: 18059)
Mình có một đôi chân vững chãi, một đôi mắt sáng và một tấm lòng trong, hãy nương tựa vào mình. Đôi bàn chân sẽ cho bạn phương tiện đi tới...
(Xem: 15152)
Dạo ấy, vào khoảng cuối thập niên 50 và đầu thập niên 60 của thế kỷ trước, Phật học viện Trung phần Hải Đức tại Nha Trang thấy cần phải mở rộng việc đào tạo tăng tài.
(Xem: 14664)
Thời đại ngày nay, trong chúng ta ai mà lại không bận rộn, ai mà lại có dư thì giờ đâu bạn nhỉ? Mặc dù đôi khi tôi cứ nghĩ là chúng ta chỉ tự tìm cho mình sự bận rộn mà thôi!
(Xem: 17867)
Đời như cơn gió bên thềm, mênh mông, vô định. Có cái gì là của mình đâu mà trói buộc? Cứ nhẹ nhàng thôi, như gió bên thềm vậy...
(Xem: 20698)
Sự vững chãi của bạn là một điều nhiệm mầu. Bởi có rất nhiều người đang tin vào bạn, họ sẽ vững chãi theo và niềm tin ấy miên viễn trong tâm thức...
(Xem: 19503)
Xuất gia có nghĩa là ra khỏi nhà, rõ hơn là ra khỏi căn nhà mình đang ở; dứt khoát bỏ mà đi khỏi căn nhà mình đang được chở che bảo bọc, hay đang bị ràng buộc, hệ lụy vương mang.
(Xem: 17069)
Tình yêu không làm cho ai khổ đau, nhưng ở trong đời có quá nhiều người bị khổ đau bởi tình yêu là do trong tình yêu của họ có nội dung của khao khát, chiếm hữu, riêng tư và tình dục.
(Xem: 15723)
Sau bữa ăn trưa, tôi hỏi một vị Tăng sĩ trẻ, Thầy đã ăn xong chưa? Vị ấy trả lời - dạ! con đã ăn xong. Tôi cười và nói, Thầy chưa ăn xong đâu, ngày mai Thầy lại tiếp tục ăn lại...
(Xem: 17142)
Trong đời sống hàng ngày, ta cố ý nói sai sự thật để đánh lừa người khác là chính ta không những chỉ phá hoại và làm thương tổn lời nói của ta, mà chính ta còn làm thương tổnphá hoại sự hiểu biết và nhân cách của ta nữa.
(Xem: 15877)
Bạn biết không? Mọi niềm vui xảy ra trong thế gian đều dẫn đến hậu quả của thất vọng và khổ đau. Tại sao? Vì lòng tham của con người đối với các lạc thú thế gian là vô hạn...
(Xem: 15186)
Sống giữa đời, ai cũng mưu cầu một vài niềm hạnh phúc. Hạnh phúc được xem nhưmục tiêu thiết yếu nhất mà loài người nói riêng và vạn loài tồn sinh khác nói chung hướng đến tìm cầu.
(Xem: 14951)
Trong cuộc sống có đôi khi chúng ta lầm tưởng, mọi thứ đều diễn ra quá êm đẹp và theo chiều hướng tốt để ta có thể đạt được cái mà chúng ta muốn có.
(Xem: 14970)
Có thể nói vạn vật hữu hình khó đứng vững và tồn tại trước những cơn thịnh nộ của bão tố. Thế nhưng, đôi khi đâu đó cũng có những cành hoa bé nhỏ yếu ớt đã sẵn sàng trụ lại sau những cơn cuồng nộ của tự nhiên.
(Xem: 17996)
Mỗi khi nghe đến mấy bài hát diễn tả những sinh hoạt nơi đồng quê, như cảnh gặt hái của ngày mùa, hay những buổi tối giả gạo dưới trăng tôi chợt nhớ đến quê tôi tha thiết.
(Xem: 15742)
Chúng ta luôn đặt ra cho mình rất nhiều mục tiêu, song trên bước đường theo đuổi chúng, phải chăng bạn đã đánh mất giá trị tự thân của cuộc sống? Lao đầu vào việc theo đuổi mục đíchtrở thành nô lệ của mục đích.
(Xem: 16706)
Việc con người chạy theo các dục, vì họ sống với các chủng tử tâm hành liên hệ đến vô minh, mọi sinh hoạt của họ là sinh hoạt trong bóng đêm, và ngay cả ánh sáng cũng chỉ là bóng đêm của họ mà thôi...
(Xem: 14403)
Khu vực tôi ở có một con đường hai hàng thông cổ thụ, tàn lá giao nhau như lọng che, vừa tạo nét đặc thù, vừa luôn luôn cho bóng mát.
(Xem: 14315)
Mùa hạ về… bao suy tư được trải nghiệm, bao ước vọng lại xâu kết bên lòng. Âm vang ngày hạ là nắng là hoa, là hương thơm từ đất, là hơi ấm từ bóng mặt trời lan tỏa.
(Xem: 16537)
Ông lão ăn xin nom thật tội nghiệp với một tay chống gậy, một tay run run cầm chiếc nón rách hướng về phía chị, giọng thều thào...
(Xem: 17396)
Những làn sóng biển đùa chơi với nhau và cùng nhau chạy vào bờ chạm lên cát trắng, rồi tan biến vô sự giữa trời nước mênh mông. Sóng là nước và nước là sóng.
(Xem: 18618)
Thuở xưa, khi vua Phạm Dự (Brahmadatta) trị vì Ba-la-nại (Benares), Bồ-tát thọ sanh làm một con Tắc kè. Bấy giờ, có một ẩn sĩ khổ hạnh sống trong một thảo am...
(Xem: 16964)
Chúng ta tự thuyết phục mình rằng cuộc sống sẽ tốt đẹp hơn sau khi ta hoàn tất một dự án này, học hết chương trình này, xong một khoá trị liệu này...
(Xem: 16367)
Ananda là đại đệ tử của Phật. Là em chú bác của Phật, ngài từ bỏ đời sống vương giả, xuất gia theo Phật, hầu cận bên cạnh Phật suốt đời.
(Xem: 15649)
Chỉ hai tuần, sau khi dọn tới căn nhà mới, tôi đã biến đổi hoàn toàn mảnh vườn, khi được người chủ nhà bảo: “Muốn trồng gì, làm gì, xin tùy ý!”
(Xem: 16434)
"Hãy cho con thành một đóa hồng cao lớn, bởi vì con ước mong được ngẩng cao đầu với một niềm kiêu hãnh; đây sẽ là việc của riêng con, con bất chấp số phận mình ra sao."
(Xem: 15409)
Hình ảnh một thiền sư chậm rãi thiền hành trong nắng mai hay an nhiên lặng lẽ tĩnh tọa giữa rừng chiều là tặng phẩm tuyệt đẹp cho những ai có tâm hồn nhạy cảm...
(Xem: 14238)
Em là những giọt nước nằm sâu dưới lòng đất, nhưng em muốn đi về với đại dương có được không anh? - Được chứ, điều ước mơ của em là rất đẹp...
(Xem: 15390)
Trước kia các cuộc khủng hoảng phát minh bởi sự khai thác những tài nguyên và bóc lột khả năng con người. Hiện tại khủng hoảng vì sự lạm dụng các học thuyết chủ nghĩa, nên càng khốc hại, nguy hiểm và phá hoại hơn.
(Xem: 14791)
Ngồi một mình bên tách trà xanh, nhìn chung quanh mình là mùa thu có màu vàng bao phủ khắp không gian. Thiên nhiên khoe mình, kiêu hãnh.. biết bao nhiêu cây lá mỉm cười...
(Xem: 7535)
... cái quan niệm ta có về Bụt ấy cũng như một cái hố xí, và theo nghĩa đó, Bồ TátLa Hán cũng chỉ là những kẻ đem tới gông cùm.
(Xem: 17164)
Thầy giáo yêu cầu mỗi chúng tôi mang một túi nilông sạch và một bao tải khoai tây đến lớp. Sau đó, thầy bảo cứ hễ chúng tôi không tha thứ lỗi lầm cho người nào đó thì hãy chọn ra một củ khoai tây viết tên người đó và ngày tháng lên rồi bỏ nó vào túi nilông.
(Xem: 12279)
Dì Năm dự định mang cậu con trai về trại ruộng Thới Sơn, Châu Đốc nương náo với đồng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa tu dưỡng thân tâm, tiện đường dì ghé lại chùa Tây An(1) đảnh lễ Đức Phật Thầy để cầu nguyện cho con sớm lành bệnh.
(Xem: 12202)
Thanh thường bị bè bạn chế giễu là “công tử miệt vườn”, có thể một phần vì gia đình chàng sở hữu một thửa vườn cây trái khá rộng – vườn Tám Thà - tại ngoại ô thị trấn Châu Đốc, nhưng cũng có thể cũng do bản tánh hiền lành chơn chất và “nhát gái” của chàng.
(Xem: 16502)
Một ngày nọ, Vua Salomon bỗng muốn làm bẽ mặt Benaiah, một cận thần thân tín của mình. Vua bèn nói với ông: "Benaiah này, ta muốn ông mang về cho ta một chiếc vòng...
(Xem: 14633)
Một lát sau, chiếc xe thứ ba chạy tới. Chiếc xe này không cũ, không có đông khách nhưng bạn vẫn không hài lòng: "Cái xe này không có điều hoà, thôi mình cố đợi chiếc sau".
(Xem: 14505)
Mùa Vu Lan lại về. Bên cạnh nụ cười rạng rỡ trên gương mặt những người diễm phúc còn có Mẹ, chúng tôi, những người cài hoa trắng, lòng bâng khuâng nhớ Mẹ đã khuất bóng nơi xa...
(Xem: 13815)
Đời có tươi thì có phai; tình có ấm lên thì có nguội. Vẫn biết thế nhưng tình cảm tự nhiên con nhớ Mẹ, thương Mẹ vượt ra ngoài biên giới chật hẹp của sự hợp lývô lý thường tình.
(Xem: 12435)
Em nằm yên giấc mồ côi Đoá hồng lắng đọng bên dòng phù du gió nguồn ngày tháng vi vu sóng đời dồn dập vô thường viễn xa...
(Xem: 13812)
Thằng bé nhìn con bướm chết lần cuối. Dưới ánh trăng đôi cánh nó lấp lánh như ánh vàng. ”Cậu đẹp thật đấy”, thằng bé nghĩ. Rồi một lát sau cậu thả con côn trùng rơi trên đất và chạy về phía mẹ.
(Xem: 12273)
Đây là một câu chuyện có thật, chúng tôi gọi là "Câu chuyện bát mì". Chuyện xảy ra cách đây năm mươi năm vào ngày 31/12, một ngày cuối năm tại quán mì Bắc Hải Đình, đường Trát Hoảng, Nhật Bản.
(Xem: 15316)
Cô con gái hay than thở với cha sao bất hạnh này cứ vừa đi qua thì bất hạnh khác đã vội ập đến với mình, và cô không biết phải sống thế nào.
(Xem: 13757)
Là một thành viên trong cộng đồng thế giới, tôi không thể nói rằng tôi không có trách nhiệm gì đối với những khổ đau, bất ưng, nghịch lý, bất công, hiểm nguy đang xảy ra chung quanh tôi.
(Xem: 13645)
Nỗi thất vọng lớn nhất của con người là chạy bươn về phía trước hay chạy ngược về phía sau để kiếm tìm cho mình một bản ngã. Bản ngã trong cơm áo, gạo tiền, trong kiến thức chữ nghĩa...
(Xem: 13142)
Ta làm và nói sai, nhưng ta lại được nhiều người khen ngợi mỗi ngày, như vậy mỗi ngày đi qua đời ta là mỗi ngày đưa đời sống của ta đi dần vào bóng đêm và từ bóng đêm này dẫn ta đi tới bóng đêm khác.
(Xem: 14030)
Có một phạm nhân trong thời gian cải tạo khi đang tu sửa lại đường đi, anh ta nhặt được 2 triệu đồng, anh ta không mảy may suy nghĩ liền mang số tiền này đến chỗ cảnh sát.
(Xem: 13663)
Con bé không chú ý đến câu hỏi của tôi, đang bận bịu thổi kẹo thành quả bong bóng nhỏ. Có lúc nó thổi không khéo, quả bóng vỡ gây một tiếng bụp nhẹ, để lại chất kẹo nằm vắt ngang đôi môi mọng đỏ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant