Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Lòng Vị Tha Của Một Vị Thầy

16 Tháng Mười Một 201511:38(Xem: 7998)
Lòng Vị Tha Của Một Vị Thầy
Lòng Vị Tha Của Một Vị Thầy

Thích Đạt Ma Phổ Giác
Long Vi Tha



Hai người đã gặp nhau khi cùng đi chung một con đường, vị tu sĩ già trong dáng vẻ gầy guộc, ốm yếu nhưng đôi mắt sáng tròn luôn nở trên môi nụ cười.

    Còn chàng kiếm sĩ nghèo, tạng người khô đét, nét mặt khắc khổ, nước da sạm nắng và dóc dáng bơ phờ.

    Hai người đồng vào một quán dọc theo lề đường và vô tình cùng ngồi chung một bàn. Thức ăn được dọn ra rất đạm bạcđơn sơ, chỉ với rau muống luộc và tàu hủ kho. Trong lúc ăn cơm hai người cùng trò chuyện thăm hỏi nhau, mới biết cùng đi chung một đường. Sau đó hai người kết bạn đường với nhau, họ vừa đi vừa trò chuyện rất là tâm đắc, tưởng chừng như đôi bạn đã thân quen nhau từ lâu rồi.

  Chàng kiếm sĩ nghèo vừa đi vừa than phân trách phận, đổ thừa cho trời đất chẳng linh hiển và công bằng, vì đã tạo ra sự sai biệt trong cuộc đời. Kẻ sang người hèn, kẻ giàu người nghèo, kẻ tốt người xấu, có kẻ ăn trên ngồi trước muốn gì được nấy, có kẻ khốn cùng thiếu thốn khó khăn. Chàng kiếm sĩ ấy luôn than phiền trách móc đủ điều, rồi uyên thuyên kể về cuộc đời kiếm sĩ của mình, phải đụng độ biết bao nhiêu trận và giết được bao nhiêu người với vị sư già, suốt trên đường đi. Là một kiếm sĩ muốn có tiền để sống bắt buộc phải thi đấu để tranh tài hơn thua, cao thấp, vì vậy mà phải đánh, phải giết. Kẻ thắng thì được danh tiếng lẫy lừng, tiền bạc dồi dào, nhưng mấy khi cuộc đời kiếm sĩ hoàn toàn được thắng có những lúc cũng bại trận nơi đấu trường. Cuộc đời kiếm sĩ hết sức thăng trầm, thắng thì sống trên xương máu và sự đau khổ của kẻ bại trận. Còn thua thì phải chịu thân tàn ma dại, vậy có gì là hay ho mà nhiều người vẫn ngưỡng mộ.

     Ngược lại, vị sư già là người tu hành hành chân chánh, chỉ biết làm sao điều phục thân mình để chuyển hóa những nỗi khổ niềm đau, thành an vui hạnh phúc. Suốt đời không hề gây tổn thương cho ai và không làm đau khổ cho người và vật. Hai người sau mấy ngày làm bạn đồng hành, họ trở nên thân thiết hơn nhưng cuộc sống của họ khác biệt nhau. Nhà sư với dáng vẻ trang nghiêm điềm đạm, chỉ lo tu hành trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh giúp mọi người vượt qua nỗi khổ niềm đau. Còn chàng kiếm sĩ suốt đời chỉ biết thách đấu và sống nhờ vào sự chết chóc và thất bại của kẻ khác. Mỗi người có một tâm tư sở nguyện khác nhau, nếu ai biết nhận thức đúng đắn tin sâu nhân quả, thì sẽ chọn  việc làm thánh thiện không làm tổn hại cho người và vật.

   Hành lý của hai người rất đơn giản và gọn gàng, nhà sư mang trên vai chiếc bị vải trong thật cũ kỷ và nghèo nàn. Còn chàng kiếm sĩ ngoài túi hành lý mang theo cùng với hai thanh kiếm. Nhà sư vừa đi vừa kể lại cuộc đời hành đạo của mình, có những bước thăng trầm lên xuống phải trải qua nhiều gian nan thử thách, mới giữ vững được chí xuất trần thượng sĩ. Còn chàng kiếm sĩ lúc nào cũng khoe khoang về sự chiến thắng và luôn hãnh diện, vì đã từng hạ gục nhiều đối thủ tiếng tăm, trên bước đường phiêu bạc giang hồ của mình.

   Hai người tuy đi chung đường cùng một chỗ đến, nhưng mỗi người có một chí hướngquan niệm sống khác nhau. Vị sư già suốt cả cuộc đời chẳng màng đến danh lợi, chỉ biết ngày ngày rày đây mai đó sống cuộc đời tha phương cầu thực, luôn khuyên nhũ mọi người biết thương yêu đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau, không hại người, hại vật. Sau mấy ngày làm bạn đồng hành với nhau họ trở nên thân thiết hơn, vị sư già có điều gì tâm đắc điều nói hết cho gã kiếm sĩ nghe. Một hôm, hai người đang ngồi nghỉ bên vệ đường, nhà sư mới thật thà nói với chàng kiếm sĩ, nhà ngươi có biết cái gì trong túi vải của ta không?


Gã kiếm sĩ nói: Có lẽ là một pho tượng Phật?
Không phải đâu!

Hay là một bộ kinh quý giá, mang lời dạy vàng ngọc của Như lai thế tôn?

Ngươi đã đoán sai hết rồi
À! Tôi đã biết rồi, chắc chắn là đôi hàm răng xá lợi của đức Phật.
Thú thật với ngươi, trong bị vải này đựng hơn 200 nén bạc.

Chàng kiếm sĩ nghèo nghe nói vậy quá đổi ngạc nhiên, chẳng lẽ nhà sư nói đùa với tôi sao?

Nhà sư nói, bần đạo là người tu hành đâu biết nói dối. Nếu ngươi không tin thì hãy xem nè, vị sư già mở banh túi ra quả thật không sai.

Chàng kiếm sĩ chắc lưỡi ra chiều thèm thuồng, không ngờ nhà sư già có số bạc quá lớn như vậy.

Nhà ngươi biết không, bao nhiêu năm xuất gia học đạo ta chỉ ước mơ một điều duy nhất là làm sao đúc được một tượng Phật bằng đồng để mọi người được chiêm ngưỡngtu tập.

     Từ nhiều năm nay ta rày đây mai đó, để xin mọi người hãy mở rộng tấm lòng bố thí và hỷ cúng, đến bây giờ đã được trên hai trăm nén bạc đựng cả trong túi vải này. Giấc mơ của ta sắp biến thành sự thật, ngươi là kẻ đầu tiên được ta tin tưởng nói cho biết đó.

     Chàng kiếm sĩ nghèo bị hoa mắt lên, bởi một sự thật không thể ngờ. Cuộc đời kiếm sĩ của mình tung hoành ngang dọc vào sống ra chết, vậy mà chưa khi nào có được một số tiền chỉ bằng một phần mười thôi. Ta hiện giờ đang thiếu thốn khó khăn, trong khi vị sư già đầy ấp bạc trong túi chỉ để đúc tượng Phật. Chàng kiếm sĩ tự than phân trách phận, sao cuộc sống mình quá hẩm hiu tuổi đời bắt đầu vào hàng bốn mươi rồi mà chưa có sự nghiệp trong tay. Nhà sư già kia chẳng cần phải nhọc nhằn gì cả, mà lại có hơn hai trăm nén bạc, thật ra ông trời sao quá bất công chẳng ưu đãi cho ta chút nào. Chàng kiếm sĩ tự nghĩ thầm, giá mà ta có trong tay số bạc đó thì … ?

    Từ khi chàng kiếm sĩ biết được vị sư già mang túi bạc trong mình, làm gã toan tính đủ thứ. Chàng kiếm sĩ cố suy nghĩ để tìm cách nào lấy được túi bạc mà không bị ai nghi ngờ, phát giác. Cứ thế trong suốt đoạn đường trở về quê hương anh ta bị túi bạc làm mờ mắt và trong tâm anh ta chỉ có bạc và tiền.

    Rồi cái gì đến sẽ đến, hai người phải đi bằng thuyền để qua một eo biển, thế là anh ta dìu nhà sư ra ngồi phía sau thuyền chỗ vắng người nhất, anh ta tự cười thầm vì đã có cách để chiếm đoạt túi bạc. Trong lúc thuyền đang chạy nhân dịp sóng đánh lắc lư anh ta vờ ngã người vào nhà sư và sau đó đẩy luôn vị sư già xuống biển. Một hồi sau khi con thuyền đi quá xa, anh ta mới la toán lên rằng nhà sư vừa bị rớt xuống biển. Chủ thuyền cũng tìm cách để cứu nhà sư nhưng mọi người đều thất vọng, vì không tìm ra tung tích. Nhiều người trên thuyền, đồng chia buồn cho nhà sư xấu số kia không được may mắn. Khi tàu vừa cặp bến, chàng kiếm sĩ vội vàng ôm túi bạc chuồn một cách lẹ làng, không ai còn thấy bóng dáng của anh ta đâu nữa.

    Đêm hôm đó, trong phòng riêng tại một nhà trọ chàng kiếm sĩ ung dung mở túi bạc ra xem, một sự thật không thể ngờ số bạc làm anh ta hoa mắt lên. Anh ta tự nhủ thầm, từ nay ta sẽ thoát kiếp nghèo khó. Bắt đầu anh ta đến một thành phố lớn thay tên đổi họ, rồi kinh doanh nghề bất động sản. Anh ta tự nhiên phất lên như diều gặp gió, rồi anh ta cưới vợ, có con. Việc làm ăn của anh ta ngày càng phát đạt tiến triển một cách nhanh chóng. Giờ đây, anh ta có trong tay tất cả quyền lực, tiền bạc, sống hạnh phúc bên vợ con, nhưng một nỗi ám ảnh lớn luôn dằn dặt anh ta, cái mà anh ta có được ngày hôm nay là do tội lỗi quá khứ của mình làm nên.

     Anh ta cứ ray rức, ân hận mãi không thôi. Chính sự thiếu thốn nghèo khổ khiến anh ta tạo nên tội ác tày trời, anh ta chợt nghĩ đến nhà sưrùng mình kinh sợ. Nhà sư từ bi nhân từ đạo đức bao nhiêu, thì anh ta xấu xa độc ác bẩn thỉu bấy nhiêu. Nỗi ám ảnh cứ dày dò làm anh ta đột nhiên phát bệnh, bao nhiêu thầy thuốc đến đều bó tay xin chào thua, bệnh tình của anh ta ngày càng thêm trầm trọng.

    Một hôm có vị sư già trên đường đi hóa duyên, vô tình đi ngang chỗ anh ta đang ở, thấy nhiều người dụm năm dụm bảy, bàn tán xôn xao, rằng anh ta bị quỷ ám ma nhập, nên suốt ngày cứ chùm chăn nói nhảm chẳng còn thiết ăn uống gì cả. Vợ anh ta, trong cơn túng quẩn gặp được nhà sư liền thỉnh ngài quang lâm chửa trị dùm. Động lòng thương xót nhà sư hứa khả. Vừa gặp nhà sư anh ta hoảng loạn la toán lên, đó, đó, ma quỷ kìa! Ma sư trở về trả thù ta kìa. Lúc này nhà sư mới từ tốn nói, phải tôi là bạn đồng hành của ông mấy năm về trước. Tôi hiện giờ vẫn còn sống, nhờ một tàu đánh cá vớt lên. 

    Hơn bốn năm nay, tôi phải tiếp tục cuộc hành trình quyên góp và tôi cũng đã mãn nguyện khi hoàn thành sứ mệnh đúc tượng Phật. Ngày nay tôi đã biết vì sao ông mất chứng bệnh kỳ lạ kia, tôi lúc nào cũng thương tưởng nhớ nghĩ tới ông, vì quá tham lam mê muội mà ông đã gây ra lỗi lầm năm xưa. Nhưng tôi là người tu hành, nên sẵn sàng độ lượng, bao dungtha thứ cho ông. Tôi chỉ khuyên một điều duy nhất ông hãy nên chính chắn suy nghĩ, khi muốn làm việc gì phải nên xét kỹ đến hậu quả của nó. Ngày xưa ông nghèo khổ nên bất đắc dĩ phải làm như thế, tôi rất cảm thông cho ông. Giờ này, ông đã có sự nghiệp trong tay rồi, vậy từ nay trở đi hãy nên ăn năn sám hối và luôn làm những điều thiện ích, để chuộc lại lỗi lầm xưa.

    Dạ thưa thầy, con ăn năn hối hận vô cùng, xin thầy mở rộng lòng từ độ con và gia đình quy y cửa Phật để con có cơ hội làm mới lại chính mình, làm mới lại cuộc đời dấn thân phục vụcộng đồng xã hội. Xin thầy hoan hỷ cho con được trả lại hơn bốn trăm nén bạc, tức gấp đôi số bạc con đã cướp của thầy.

    Thầy nói, bây giờ thì ta không cần số bạc đó nữa, vì ta đã đúc xong tượng Phật. Dạ thưa thầy bây giờ con đã thật sự ăn năn hối lỗi, kính mong thầy hãy vì đệ tử, mà lấy số bạc đó để giúp cho những người nghèo khổ, thiếu thốn.

    Nhà sư nói, nếu vậy thì được! Ta suốt đời tu hành rày đây mai đó trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sanh, không bám víu vào tài sản sở hữu chỉ tùy theo nhân duyên mà đàm đạo. Ngươi cùng ta có duyên nên mới gặp nhau như thế này. Ta luôn từ, bi, hỷ, xả, lấy ân nghĩa làm đầu mà sẵn sàng tha thứ cho ông không một lời oán trách. Chỉ mong từ nay về sau ngươi phải thật sự là một con người sống có nhân cách đạo đức, luôn cố gắng dọn mình cho trong sạch sống có tình, có nghĩa, có trước, có sau, đừng để làm tổn hại cho ai cả. Nói xong nhà sư liền ra đi, từ đó chàng thương gia bệnh tình ngày càng thêm giảm.

    Con người do lòng tham lam sai khiến, nên sẵn sàng làm những điều xằng bậy dù biết đó là bất nhân, bất nghĩa. May mà chàng kiếm sĩ đó, gặp phải nhà sư tu hành chân chánh, nên chỉ đem tình thương để chuyển hóa hận thù và còn hướng dẫn chỉ dạy tận tình, để anh ta có cơ hội tốt làm lại cuộc đời hoàn thiện chính mình. Trong kinh Phật dạy:

           Ai lấy hận thù diệt hận thù

           Thì hận thù càng thêm chồng chất

           Lấy tình thương xóa hận thù

           Bao nhiêu oan nghiệt nhiều đời tiêu tan.

    Tấm lòng từ bi cao cả của nhà sư đã chuyển hóa được một con người lầm lỗi, giúp cho vị thương gia thay đổi nhận thứccách sống như thế nào để trở thành một con người có ích cho mình và có lợi cho người. Từ đó vị thương gia này hết lòng tôn kính Tam bảo, luôn thành tâm hộ trì cúng dường những vị tu hành chân chánh và hết lòng giúp đỡ người bất hạnh, người già cả, người tàn tật, người cô độc, người nghèo khổ. Thế gian là một trường đời phức tạp lúc nào cũng song hành hai mặt, thiện ác, tốt xấu, đúng sai, phải quấy, hơn thua, được mất, nhưng người hướng thiện thì quá ít chỉ điếm trên đầu ngón tay, người làm ác thì quá nhiều không sao kể siết. Nhà sư luôn sống nhân từđạo đức, tâm hồn lúc nào cũng rộng mở, sẵn sàng tha thứkhoan dung cho những ai còn đang lầm đường lạc lối vì bị bóng tối vô minh che phủ.

      Hình ảnh hai nhân vật nhà sư và chàng kiếm sĩ, nói lên tấm lòng vị tha của người tu hành chân chánh, đã vượt qua rào cản của luân hồi sinh tử nên không buồn phiền trách móc người cố ý hại mình. Ngược lại còn tìm cách giúp đỡ để người đó biết ăn năn sám hối lỗi lầm, vươn lên làm mới lại cuộc đời, nhờ vậy chàng thương gia sau này trở thành một Phật tử thuần thành luôn sống vì lợi ích tha nhân.

    Cũng như trường hợp của lục tổ Huệ Năng một kẻ giết người mướn tên là Hành Xương tìm đến ngài để thủ tiêu. Tổ biết trước sự việc nên chuẩn bị sẵn mười lượng vàng, sau khi tên thích khách hành hung không được và quá hoảng sợ nên té xỉu tại chỗ. Tổ cứu tỉnh dậy và đưa vàng, rồi nói rằng ta chỉ nợ vàng chớ không nợ mạng, nhà ngươi hãy mau rời khỏi nơi đây kẻo tăng chúng hay thì nguy đến tính mạng. Khi nào ông trở lại ta sẽ độ cho ngươi làm đệ tử. Thật là Tổ hết sức từ bi rộng lượng, kẻ đến giết mình mà Ngài vẫn không hề trách móc oán giận, lại còn tạo điều kiện để độ người đó nữa. Đến đây chúng ta mới thấy khi người đạt đạo, không còn thấy kẻ thân hay người thù đều đối xử bình đẳng như nhau.

      Nhưng trong cuộc đời này mấy người được như vậy, nhiều chuyện xảy ra làm đau lòng thiên hạ cảnh người thân giết hại lẫn nhau chỉ vì chút vật chất cỏn con. Con giết cha vì chia gia tài không đồng đều, mẹ giết con vì tình nhân trẻ, chồng giết vợ vì ghen tuông vô cớ. Muốn chuyển hóa được lòng tham lam ích kỷ, mở rộng lòng nhân ái đối với tha nhân, chúng ta phải biết nhận diện được lỗi lầm. Thấy rõ được bản chất tạm bợ hư dối của nó, do đó người con Phật hãy nên thường xuyên tinh cần quán chiếu một cách sâu sắc, nhờ vậy tâm tham lam ích kỷ hẹp hòi, hại người, hại vật, từ từ thuyên giảm, thay vào đó là tâm từ bi ngày càng rộng mở. Tu tập tâm từvấn đề quan trọng và cần thiết trong cuộc sống của nhân loại, thế gian nếu thiếu tinh thần từ bi thì dễ trở thành những con người thù địch với nhau. Nhờ tu tâm từ con người dễ dàng cảm thông, bao dungtha thứ, thích sống gần gũi với nhau hơn trong tình thương yêu và hiểu biết, dấn thân và phục vụ, trên tinh thần vô ngã vị tha, tốt đạo đẹp đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1069)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1253)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 981)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1314)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 770)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 739)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 791)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 809)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 788)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 776)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 929)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 815)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 973)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 981)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 913)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 916)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 842)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 999)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 942)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 887)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 976)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 892)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 838)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 943)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 871)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1133)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 899)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 996)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1129)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1598)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1150)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1232)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1101)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 959)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 907)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 946)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 789)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1470)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1348)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1318)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1256)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1361)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1315)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1459)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1339)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1193)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1243)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1309)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1291)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant