Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nói Xấu Người Khác

24 Tháng Mười Một 201509:13(Xem: 16155)
Nói Xấu Người Khác

NÓI XẤU NGƯỜI KHÁC

Thích Đạt Ma Phổ Giác


Nói Xấu Người Khác

Con người là một loài vật cao cấp hơn hẳn các loài khác nhờ biết suy nghĩ, nói năng, rồi mới hành động. Nói là một khả năng đặc biệt của con người. Mọi việc vui buồn, sướng khổ đều phát xuất từ lời nói. Con người ta thương nhau, yêu nhau cũng từ lời nói và ghét nhau, hận thù nhau cũng từ lời nói. Cho nên có câu:

Lời nói không mất tiền mua, 
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Tôi có khiếm khuyết là hay nói xấu người khác, hễ không vừa lòng chuyện gì là nói mạnh bạo chẳng biết nể sợ một ai dù đó là người ơn. Chính vì vậy, cuộc đời của tôi cũng trải qua nhiều biến cố thăng trầm, ba chìm bảy nổi chín cái lênh đênh. Ai cũng sĩ diện bản ngã của mình nên nói lỗi người khác dễ dẫn đến bất hòa, chia rẽ; nhưng không nói thì trở thành tín đồ cuồng si chỉ biết vâng theo mệnh lệnh của người có quyền lực; như thế vô tình đưa đẩy các sếp của mình trở thành những con người phong kiến cấp tiến. Ngày xưa, trong các thể chế phong kiến vua là con trời, mà trời là đấng tối cao có quyền ban phước, giáng họa, bề trên là tôn quý, bề dưới là phục tùng. Ngày nay, các tập tục đó đã từ từ được thay thế bởi chế độ chuyên chính dân chủ, chính con người làm chủ vận mệnh và cùng nhau kết hợp với nhiều người. Chế độ quân chủ phong kiến trên nền tảng cá nhân quyết định mọi quyền lực bằng sự độc đoán, độc tài khi con người còn mờ mịt trong hiểu biết. Người sau này khôn ngoan hơn, cũng chính sách phong kiến độc tôn nhưng được triển khai thành phong kiến cấp tiến để củng cố, duy trì địa vị của mình và được xây dựng trên nền tảng bản ngã nhiều người có quyền lực.

Ta hãy nói lỗi lầm của người khác trên tinh thần góp ý, xây dựng để cùng nhau dấn thân và phục vụ đời sống xã hội ngày càng tốt đẹp; không nên nói lỗi lầm ai đó để triệt buộc hoặc hạ bệ người nhằm trả thù cá nhân. Thông thường thì chúng ta hay ngồi lại với nhau để nói lỗi lầm của người khác, vì chúng ta nghĩ mình là người tốt còn người kia là người xấu. Có khi chúng ta nói xấu người khác vì ganh ghét họ, thấy họ hơn mình về địa vịquyền lực. Khi chúng ta không làm chủ bản thân trong cơn tức giận, ta có thể nói xấu người khác. Đôi khi, chúng ta nói xấu người khác để lôi kéo mọi người về phe của mình.

Nói xấu người khác sẽ dẫn đến tai hại như thế nào? Chính khi đang nói, ta cảm thấy bực bội, tức tối và dường như chúng ta cũng bất an khi phanh phui lỗi của người. Khi chúng ta thấy lỗi lầm của người khác là chúng ta có thể bỏ mất cơ hội hiểu biếtthương yêu hơn. Một lời nói tốt đẹp có thể đem lại hòa bình cho nhân loại. Một lời nói thách thức có thể gây ra chiến tranh. Nói xấu kẻ khác có được lợi ích gì? Thường thì không được lợi ích gì cả mà chỉ khiến ta phải mang khẩu nghiệp. Khi nói xấu người thì bị người nói xấu lại, cũng có khi dẫn đến gây gổ, xích mích, hiềm thù nhau. Cho nên, chúng ta nguyện không nói lỗi lầm của người khác để khẩu nghiệp của ta được thanh tịnh, do đó ta có thời gian quán chiếu, soi sáng sự vật một cách tốt đẹp. Khi chúng ta tức giận ai, chúng ta dễ dàng nói xấu người đó để thuyết phục mọi người đứng về phía mình. Có khi, chúng ta nói xấu người vì ganh ghét, nói xấu người vì họ hơn mình, nói xấu người để hả cơn giận. Vậy ta nói xấu người khác để được lợi ích gì? Chắc chắn chúng ta sẽ mang lấy khổ đau; cũng giống như người đốt đuốc đi ngược chiều gió, người thì chưa nghe chưa biết nhưng ta đã bốc lửa sân si. Khi nói xấu người khác chính bản thân ta đã phải chịu bất an, vì khi nói xấu ai tức có sự nóng giận nên ta cảm thấy mình là kẻ khổ trước tiên.

Để đối trị bệnh nói xấu người khác, ta hãy nhìn thấy cái hay của họ. Nếu ta để ý điều tốt của họ thì ta sẽ không thấy lỗi lầm, vì ta thấy việc tốt nên sinh tâm hoan hỷ. Có nhiều người chỉ thích nói sự thật chứ không thích nói để được lòng thiên hạ, họ tôn trọng cái thực nên lúc nào cũng thẳng ruột nói đúng mục đích; do đó bị nhiều người tỵ hiềm, ganh ghét, chờ thời cơ trả thù. Ai cũng biết rằng, nói sự thật là quý giá nhất trên đời, nhưng “thuốc đắng dã tật, sự thật mất lòng”. Khó có ai đủ can đảm nhìn nhận sự thật, vì sự thật lúc nào cũng phũ phàng. Nhất là nói sự thật với những người có quyền thế thì dễ bị mang họa vào thân, vì người có quyền thì sĩ diện bản ngã lớn hơn ông trời con. Nói sự thật là một điều tốt nhưng vẫn còn tùy thuận vào môi trường sống của chúng ta. Nếu chúng ta cứ một bề chấp chặt vào sự thật, e có ngày ta sẽ gặp hiểm nguy vì kẻ tiểu nhân sẵn sàng chống trả quyết liệt bằng mọi cách. Như thế, dù nói sự thật cũng chưa hẳn là giải pháp tốt để giúp mọi người thăng hoa trong cuộc sống; nhưng nếu nói sự thật để bảo vệ chân lý vì sự sống còn của nhân loại, vì lợi ích cho nhiều người thì dù có chết ta vẫn phải nói. Nói để làm gì? Nói để đem lại công bằng cho nhân loại; nhưng nếu nói sự thật làm cho đối phương không còn cơ hội để được sống yêu thươngtác hại lớn đến cộng đồng, xã hội thì ta phải khéo léo che giấu bớt.

Tóm lại, nói xấu người khác là căn bệnh trầm kha của đa số con người, là thói quen thâm căn cố đế do chấp ngã gây ra. Trong lúc nóng giận dễ phát sinh những lời nói xấu người khác, hoặc thấy ta đúng người sai nên hay nói xấu người khác, hoặc ta muốn hạ bệ người để tranh giành quyền lực nên nói xấu kẻ khác để kéo họ về phe ta. Trong sự tương quan giao tiếp hằng ngày, mọi sự xích mích, bất hòa đều bắt nguồn từ việc nghĩ xấu và nói xấu người khác. Khi nói xấu người khác, tức tâm ta có sân hận, bực tức, khó chịu. Ta đang làm tổn thương mình và người. Vì sao? Vì mình đang đưa khối u ung nhọt vào trong lòng mình nên lúc nào nghĩ tới người đó là ta khổ não. Ta tự giết chết chính mình trong lần mòn đau khổ, bởi khi nghĩ xấu và nói xấu người khác tâm ta bị vẩn đục và gây thêm nghiệp ân oán, thù hằn. Muốn không nói xấu người khác ta phải tập đừng nhìn thấy lỗi người, vì khi thấy lỗi người ta dễ dàng bị kích thích tác động bởi thói quen nhiều đời tranh hơn, tranh thua; nếu hơn thì sinh ngã mạn, còn thua thì sinh oán hờn, tìm cách nói lỗi của nhau. Không nghĩ xấu và nói xấu người là một hạnh tu rất khó làm, không phải một sớm một chiều mà chúng ta có thể thành tựu.

Nói là một khả năng đặc biệt của con người, là phương tiện truyền thông hữu hiệu nhất để chúng ta tiếp nhận những giá trị sống bằng sự yêu thương hay ghét bỏ. Lời nói rất lợi hại trong khi giao tiếp với mọi người, một lời nói tốt có thể đem lại thiện cảm cho nhau và ngược lại sinh ra hận thù. Nghĩ xấu người khác chỉ làm cho tâm ta tổn thương, còn nói xấu người khác làm cho hai người đều tổn thương. Nhưng ngược đời thay, có những kẻ phải nói mạnh như thế họ mới chịu sửa sai, còn dùng lời nói ái ngữ đối với họ chẳng hiệu quả gì. Quả thật, tâm tính chúng sinh do tạo nghiệp bất đồng nên chẳng ai giống ai, cũng lời nói đó đem áp dụng với người này thì có hiệu quả tốt, nhưng đem áp dụng với người kia thì đổ vỡ. Chúng ta có tật hay nói, thích nói, hễ ngồi lại cùng nhau là nói chuyện phải quấy, tốt xấu, hơn thua, chê bai người này, chỉ trích người kia. Để chuyển hóa nghiệp nói xấu người khác, đầu tiên chúng ta tập ý không nghĩ xấu người khác, ý đã không nghĩ xấu thì miệng không bao giờ nói xấu. Muốn vậy, ta phải học hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, luôn lắng nghe tiếng nói của tha nhân, lắng nghe tâm tư của mọi người để trải lòng bao dung đến thiên hạ; hoặc ta học hạnh lễ xá của Bồ tát Thường Bất Khinh, luôn thấp mình khiêm cung lễ xá mọi người và thấy ai cũng là Phật hết. Ngoài việc thực tập các công hạnh của Bồ tát, chúng ta còn học hạnh tùy hỷ khen tặng người khác. Đa số chúng sinh thích chê hơn thích khen. Khi thấy ai làm một điều xấu gì đó thì ta phải quán tha thứ, vì họ bị vô minh che lấp, họ đáng thương hơn đang ghét, nên ta không nói xấu họ. Khi thấy ai làm một điều tốt, ta nên khen ngợi để khích lệ họ, ta và người cùng vui vẻ với nhau để được sống có hiểu biếtyêu thương.

GIÁ TRỊ CỦA THÀNH THẬT

Thuở xưa, có một vị vua sống rất nhân từđức độ, giúp dân chúng an cư, lạc nghiệp trên tinh thần đoàn kết, yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau bằng tình người trong cuộc sống; nhưng ông không có con trai mà chỉ có đứa con gái duy nhất. Vua và hoàng hậu cùng bàn nhau để kén chọn hoàng tử kế thừa ngôi vị mai sau. Để kén chọn được một vị hoàng tử tài đức vẹn toàn, nhà vua cho truyền lệnh khắp tất cả đất nước ai là con trai hãy đến cung điện để chuẩn bị cuộc thi có một không hai từ trước tới nay. Cuộc thi này rất khác lạ và có vẻ đòi hỏi một nhân cách siêu việt của con người tâm linh. Mỗi chàng trai đều được nhận một gói hạt giống hoa như nhau đem về ươm mầm, người trồng cây hoa đẹp nhất sẽ được chọn làm hoàng tử và được kết hôn cùng công chúa với thời hạn ba tháng. Các chàng trai ai nấy đều vui vẻ, phấn khởi vì việc kén chọn hoàng tử quá đơn giản, chỉ chịu khó chăm sóc một chậu hoa thật đẹp sẽ được cưới nàng công chúa xinh đẹp, kiều diễmsở hữu cả giang sơn gấm vóc.

Đến kỳ hạn, mỗi chàng trai đều đem đến những chậu hoa thật xinh đẹp, không thể chê vào đâu được. Người đến xem ai cũng trầm trồ khen ngợi những chậu hoa đẹp tuyệt vời ít thấy xưa nay. Vậy mà nhà vua và hoàng hậu vẫn không hài lòng và như còn đang chờ đợi một điều gì khác. Các chàng trai đều rất hồi hộp và nao nức chờ đợi kết quả, ai cũng có vẻ mặt hết sức hân hoan. Bỗng có một chú bé vừa khóc, vừa mếu rất thảm thương ôm chậu đất không chạy vào. Vua mới hỏi, “vì sao con lại khóc?” Chú bé thật thà thưa, “tháng trước con nhận được gói hạt giống hoa, con đem về và mua chậu đẹp, đất tốt, bón phân đầy đủ, chăm sóc hết sức kỹ lưỡng và chu đáo, vậy mà không có một cây hoa nào mọc lên. Hu! Hu!” Vua và hoàng hậu bấy giờ mới cảm thấy hài lòng vì đã tìm ra vị hoàng tử tương lai. Vua dẫn chú bé ra trước mặt mọi người tuyên bố “đây mới chính là hoàng tử của ta”, làm cho tất cả mọi người cảm thấy khó chịu, bức xúc trước lời tuyên bố đó. Trước những lời xôn xao bàn tán, nhà vua từ tốn nói, “chú bé này xứng đáng là hoàng tử của ta. Vì sao? Vì chú bé này rất thành thật, ta đang cần một con người như thế. Hạt giống mà ta trao cho các ngươi đã bị luộc chín nên không thể nào lên được”. Các chàng trai nghe nhà vua nói như thế thì tự nhìn lại nhau và đồng nói lên, “quả thật, tất cả chúng con đều gian dối; vì sợ không có chậu hoa đẹp nên chúng con đã mua cây hoa khác thế vào”. Cuộc thi đã chấm dứt, chú bé được chọn làm hoàng tử.

Thành thật có nghĩa là không dối gian. Thành thật là một đóa hoa thơm của đạo đức, là bản chất tốt của bậc hiền Thánh. Người thiếu thành thật là người hay dối gạt kẻ khác. Tại sao mọi người hay gian dối? Khi gian dối như thế chúng ta sẽ được gì! Tuy có thể ta được lợi trước mắt, nhưng lại gây hại lâu dài cho mình và người mai sau. Câu chuyện trên đã cho ta một bài học đạohết sức đơn giản nhưng giá trị của nó không thể nghĩ bàn. Ở đời, ít ai can đảm dám nhận chịu sự thật và nói lên sự thật. Do đó, ta chỉ sống với nhau toàn bằng những hình thức giả dối bên ngoài để được lòng nhau. Sự tiến bộ của tiện nghi, văn minh vật chất làm cho con người càng ngày càng nghiêng về hưởng thụ nhiều hơn. Vì muốn mọi người chung quanh cung kính và ngưỡng mộ mình, ít ai ý thức giữ được lòng thành thật. Đó là một sự thật quá đau buồn của thế nhân trong cuộc sống hiện tại, mặc dù ai cũng biết  thành thật là một đức tính tốt. Từ người thân trong gia đình cho đến mọi người trong xã hội, ai cũng muốn người khác thành thật với mình, nhưng thực tế đã cho chúng ta thấy, hầu như mọi người đều sống giả dối với nhau nhiều hơn. Do đó, dân gian có câu châm biếm, mỉa mai:

Lèo lách, lừa lọc lẹ lên lương,
Thật thà, thành thật thường thua thiệt.

Người sống thành thật rất bị nhiều người ghét bỏ và kẻ xấu có thể lợi dụng để hãm hại. Tuy nhiên, người có tấm lòng từ bi rộng lớn và vị tha thì lúc nào cũng thành thật. Chúng ta không vì thế mà trở nên điêu ngoa, xảo trá vì sợ những tổn thất nho nhỏ vì quyền lợi mà bỏ đi tấm lòng thành thật của mình. Tiền bạc, lợi dưỡng mất đi chúng ta có thể làm kiếm lại, một khi lòng thành thật mất đi chúng ta sẽ trở thành một con người không có nhân cách đạo đức tốt. Người có nhân cách đạo đức thì luôn được hưởng những đặc ân tốt đẹp dù kẻ xấu có muốn hãm hại cũng không làm gì được. Chúng ta có thể qua mắt được pháp luật, dối gạt mọi người, nhưng không thể dối gạt chính mình; và luật nhân quả rất công bằng, sòng phẳng khi hội đủ nhân duyên. Ngày nay, trong xu hướng thời đại phát triển, con người mỗi lúc mỗi đông nên nhu cầu sự sống càng nhiều. Các nhà kinh doanh dựa theo lòng tham của con người để quảng cáo sai sự thật về sản phẩm của mình nhằm lừa bịp khách hàng. Cho nên, dân gian có câu “mua lầm chớ không bán lầm”.

Một số người tu vì muốn người khác cung kính mình để được nhiều lợi dưỡng, tiếng tăm nên chưa chứng đạo lại dối xưng mình đắc đạo. Vì lợi dưỡng cho chính mình mà chúng ta lạm dụng nói dối, trong nhà Phật gọi là đại vọng ngữ. Ai phạm vào tội này quả báo về sau rất nặng nề vì đã lạm dụng sự cung kính, lợi dưỡng của nhiều người. Chúng ta có thể lừa dối một người hoặc nhiều người trong một thời gian nào đó chứ không thể lừa dối mọi người mãi mãi. Sự thật vẫn là sự thật, một lúc nào đó sức mạnh của chân lý sẽ được phơi bày.

Vậy vì sao con người ta hay gian dối; nói dối như vậy có mục đích gì? Phần lớn con người ta nói dối có hai mục đích: nói dối để đem lại lợi ích cho mình, nói dối để vu khống hại người. Thông thường, người tu nói dối để được sự cung kínhlợi dưỡng, hoặc nói dối để che đậy lỗi lầm của mình. Có năm vị Tỳ kheo vì muốn mọi người cúng dường nhiều nên đã nói dối mình đắc đạo, do đó sau khi chết bị đọa vào ác đạo vô số kiếp để trả quả. Đến khi được làm người thì làm người hèn hạ, thấp kém. Hoàng hậu Mạc Lợi sau khi đảnh lễ đức Thế tôncung kính cúng dường xong mới ngồi sang một bên hỏi rằng, “thưa Thế tôn, con nhiều đời do gieo nhân gì mà hiện tại được làm hoàng hậu?” Phật mới nói, “ở nhiều kiếp lâu xa, do hoàng hậu là một Phật tử thuần thành đã cung kính cúng dường năm vị Tỳ kheo, năm người này đã nói dối mình đắc đạo nhưng lại không tu hành gì hết, chỉ thọ hưởng cúng dường cho qua ngày tháng; đến khi chết vô số kiếp bị đọa vào ba đường ác để chịu quả khổ đau. Trong đời hiện tại được sinh trở lại làm người nô lệ hạ tiện và trở lại phục dịch cho hoàng hậu”. Nghe đến đây, hoàng hậu hoảng hốt mới hỏi đức Phật, “vậy năm thầy đó đang làm gì cho con thưa Thế tôn?” Đức Phật mới từ tốn trả lời, “bốn người khiêng kiệu và một người dọn dẹp, chà rửa nhà vệ sinh”. Hoàng hậu sau khi biết được nguyên nhân đã tuyên bố phóng thích năm người đó, nhưng năm người này vì duyên nợ năm xưa chưa hết nên xin bà tiếp tục làm công việc đó vô điều kiện. Câu chuyện này là một bằng chứng thiết thực để cảnh tỉnh những người tu hành như chúng ta hiện nay. Chúng ta là người đang hướng dẫn sự thật của chân lý cuộc đời, kêu gọi và khuyên nhủ mọi người hay nên sống thành thật, tức không dối gạt người khác. Một sự bất tín, vạn sự bất tin. Một lần nói dối đã làm cho mình mất uy tín thì một vạn lần sau dù chúng tanói đúng, làm đúng nhưng khó có ai tin.

Tuy nhiên, có những chuyện ta cần phải nói dối để cứu người tai qua nạn khỏi, vì nói sự thật có thể làm hại cho kẻ khác. Ngày nay, vì nhu cầu sự sống, các dịch dụ quảng cáo thường nói sai sự thật để kích thích lòng tham của nhân loại. Con người ta vì tham tốt, tham rẻ nên bị sụp bẫy các nhà kinh doanh. Tán tận lương tâm hơn, vì lợi dưỡng mà một số người đã dùng hóa chất độc hại để đưa vào thức ăn, thực phẩm cho con người bất chấp hậu quả bệnh hoạn, chết chóc về sau. Nhan nhãn mỗi ngày, báo chí thường đăng tin ngộ độc thức ăn tập thể do lòng tham con người quá đáng, chỉ biết lợi nhuận trước mắt mà không biết hậu quả về sau. Vậy mỗi người chúng ta hãy nên thành thật như chú bé ôm chậu đất không mà được làm hoàng tử. Sau đây là bốn trường hợp nói thậtnói dối, chúng ta phải xem xét từng nguyên nhân để không làm tổn hại cho tha nhân.

Nói sự thật đem lại lợi ích cho người nghe: Trường hợp này ta nói sự thật để đem lại lợi ích cho người nghe, như chúng ta nói về sự công bằng của luật nhân quả và lý duyên sinh, nói cho đủ là nhân-duyên-quả; ai gieo nhân gì sẽ gặt quả đó, dù trăm kiếp ngàn đời vẫn không mất, khi hội đủ nhân duyên quả báo hoàn tự hiện. Chỉ có người làm việc đại thiện hoặc đại ác thì quả báo mới có thể thay đổi theo chiều hướng khác. Người hay giết hại thì chịu quả báo bị giết hại trở lại, bị chết yểu hoặc bị bệnh tật triền miên. Người hay bố thí thì được quả báo giàu sang, có nhiều của cải. Người hay khiêm hạ thì sẽ được địa vị cao, quyền chức lớn. Người hay siêng năng học hỏi sẽ được thông minh, sáng suốt. Người sống vô ngã, vị tha, sống vì mọi người thì sẽ được đạo đức chói sáng như hương thơm bay ngược chiều gió vậy.

Nói sự thật đem đến tác hại cho người nghe: Trường hợp này là ta nói sự thật có thể đem đến tác hại cho người nghe, nhiều khi còn gây ra hậu quả không thể lường. Trong nhà Phật có một câu chuyện về vị Tỳ kheo nguyện chịu đánh đập tàn nhẫn để giữ tính mạng cho con ngỗng đã lỡ nuốt mất viên kim cương của vị gia chủ nơi ông đến khất thực mỗi ngày. Vì bị nghi ngờ là kẻ cắp chiếc nhẫn kim cương, ông bị chủ nhà đánh đập rất tàn nhẫn. Trên đời này có rất nhiều người khi đã ý thức được lợi ích của lời nói chân thật sẽ dứt khoát không bao giờ nói dối và cũng không bao giờ nói lên sự thật để hại người, hại vật. Đó là hạnh chân thật của những vị Bồ tát phát tâm đi vào đời vì lợi ích chúng sinh. Vị tỳ kheo vì thương chúng sinh nên không dám nói sự thật, chấp nhận bị gia chủ đánh đập thê thảm, thân đầy thương tích. Đến khi con ngỗng vô tình bị con trâu điên đạp lên mình chết liền tại chỗ, vị tỳ kheo mới nói ra sự thật. Gia đình liền cho người mổ con ngỗng và lấy lại được viên kim cương. Sau đó, cả gia đình đều quỳ xuống lễ lạy để tạ lỗi sám hối, mong vị tỳ kheo tha thứ. Câu chuyện này nếu nói về lý rốt ráo thì vị tỳ kheo đã tu theo hạnh nhẫn nhục Ba la mật, nên chấp nhận chịu đau thương về phần mình, thà mình chịu hy sinh thiệt thòi chớ không để kẻ khác đau khổ; nếu nói về tình người, vị tỳ kheo khi thấy con ngỗng nuốt chiếc nhẫn và báo với chủ nhà biết thì mọi việc sẽ êm đẹp, vì phước của loài vật kém hơn con người. Viên kim cương lại là của nhà vua gửi để làm nhẫn, nếu thật sự bị kẻ gian lấy đi thì gia đình nọ sẽ chịu họa thê thảm biết chừng nào. Trong cơn khủng hoảng, lo sợ, thử hỏi làm sao họ không tàn nhẫn với vị tỳ kheo vì trong nhà lúc đó chỉ có vị tỳ kheo nên ngài không lấy thì ai lấy. May mà sự việc đã được sáng tỏ, con ngỗng bị trâu dẫm chết, nếu không thì hậu quả sẽ ra sao?

Chúng ta giả sử, nếu con ngỗng không bị chết đột ngột như vậy thì chuyện gì sẽ xảy ra. Vị tỳ kheo sẽ bị bắt đưa lên vua xét xử, nếu đặt ta vào trường hợp đó thì mình sẽ chỉ ngay con ngỗng là thủ phạm, coi như mọi việc sẽ êm xuôi. Đằng này, vị tỳ kheo biết con ngỗng như vậy nhưng tại sao ngài vẫn lặng thinh để bị đánh đập không một lời than oán. Đây là công hạnh cuối cùng của Bồ tát. Các vị an nhẫn, chấp nhận mọi thống khổ thế cho chúng sinh; nếu nói sự thật con ngỗng sẽ bị giết và ngài sẽ không thành tựu hạnh nhẫn nhục Ba la mật. Câu chuyện trên dường như thấy hoang đường khiến người đọc khó chấp nhận vì nó ngoài sự hiểu biết của mình; chỉ có các bậc đại Bồ tát với Bồ tát mới thông hiểu được chỗ này. Đa số người thế gian cho đó là phi lý. Con ngỗng nuốt chiếc nhẫn thì cứ nói nó nuốt chiếc nhẫn, có làm sao đâu? Thôi thì chỗ này mỗi người tự quán chiếu, suy tư thì sẽ thấy được giá trị thiết thực của nó.

Nói dối đem lại lợi ích cho người nghe - Nói dối đem đến tai hại cho người nghe (hoặc hại mình):Hai trường hợp nói dối để đem lại lợi ích cho người nghe và ngược lại nói dối sẽ đem lại tai hại cho người nghe cũng như việc chúng ta thấy một người cầm dao đang tìm người để giết. Nếu ta nói sự thật thì việc gì sẽ xảy ra? Tất nhiên, án mạng sẽ xảy ra, nhẹ lắm cũng có kẻ tù, người tội. Cho nên, nói đúng sự thật cũng chưa hẳn là tốt. Chúng ta phải biết tùy thời, tùy duyên, nói làm sao để đem lại lợi ích cho nhiều người.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 927)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1248)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 713)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 685)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 757)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 768)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 750)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 743)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 893)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 777)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 939)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 938)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 867)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 873)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 812)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 957)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 891)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 834)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 921)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 843)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 804)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 898)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 832)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1091)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 863)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 949)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1094)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1567)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1107)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1179)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1051)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 918)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 863)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 905)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 753)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1432)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1308)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1269)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1213)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1328)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1276)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1414)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1292)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1159)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1204)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1260)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1245)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1360)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant