Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ai Cũng Cần Có Khổ Đau

25 Tháng Mười Một 201506:51(Xem: 9265)
Ai Cũng Cần Có Khổ Đau

AI CŨNG CẦN CÓ KHỔ ĐAU

Thiện Ý

 
Ai Cũng Cần Có Khổ Đau

Chỉ có ai đã trải qua nỗi đau khổ tột cùng mới có khả năng cảm nhận được hạnh phúc tột cùng.
Only a man who has felt ultimate despair is capable of feeling ultimate bliss.
Alexandre Dumas

         
          Khổ đau đến giống như những ngày mưa gió bão bùng để nhắc nhở chúng ta biết sống và trân quý những ngày nắng đẹp, gió hiền.  Tất nhiên, không ai muốn mình bị đau khổ và luôn tìm mọi cách để tránh né chúng.  Nhưng, đôi lúc, chúng ta cần có đau khổ để cảnh báo mình phải dừng lại để đánh giá cuộc sống của mình.  Những người đạt đến đỉnh cao hạnh phúc trong đời sống là những người biết hướng tâm nhiều về tâm linh và thường không quan tâm nhiều đến vật dục.  Mỗi ngày, chúng ta phải trải qua một cuộc đấu tranh lớn bên trong nội tâm.  Đó là cuộc đấu tranh giữa thể xác và tâm linh.  Thể xác là nơi phát sinh những đam mê vật dục mà mình sinh ra đã có sẵn từ giòng họ, hay mình đã tạo tác trong trong quá khứ.  Đau khổ thường xảy ra khi vật dục không được đáp ứng thỏa đáng, và tâm linh thì cứ tiếp tục đòi hỏi thêm mãi.  Nghĩa là thân và tâm không được hòa hợp, bình an

          Một người kia vừa mới chết và được sinh vào một nơi thật là xinh đẹp, bao quanh với mọi thứ lạc thú không thể nào tưởng tượng được.  Một người bận áo choàng trắng đến đón chào anh ta và nói, “Ngài có thể có mọi thứ ngài muốn - thức ăn, khoái lạc, mọi thứ giải trí.”

          Anh ta thật là sung sướng, và cả ngày anh ta thử hết tất cả những món mà anh ta đã mơ ước khi ở trần gian.  Nhưng một ngày kia, anh ta đâm chán với tất cả mọi thứ, và cho gọi người hầu đến, và nói, “Tôi chán hết mọi thứ ở đây rồi, tôi cần một việc gì đó để làm. Ông có việc gì cho tôi làm hay không?”
.

          Người hầu buồn bả lắc đầu, rồi đáp, “Xin lỗi ngài. Đó là điều duy nhất chúng tôi không thể thỏa mãn yêu cầu của ngài. Không có việc làm gì ở đây cho ngài cả!”

          Nghe người hầu trả lời xong, anh ta bèn quát lớn, “Thật là hay chưa! Tôi chẳng thà sinh vào địa ngục.”

          Người hầu đáp nhẹ nhàng, “Vậy ngài nghĩ ngài đang ở đâu đây?”

         Theo như câu chuyện cho thấy, nếu sống ở đời mà không có khổ đau thì đời người thật là trống vắng và buồn chán!  Điều đáng nói ở đây là: Tại sao đau khổ lại cần thiết trong đời sống?  Đau khổ sẽ mang lại lợi ích gì mà mình cần đến nó?  Nếu chúng ta tư duy cho kỹ mình sẽ thấy tại sao Phật lại nói về khổ đế (sự thật về khổ), là một trong bốn sự thật (Tứ đế), trong bài giảng đầu tiên, chuyển pháp luân.  Tại sao đức Phật không khởi đầu bằng đạo đế (sự thật về đạo)?  Nhớ lại lịch sử khi đức Phật còn là thái tử, trong lúc dạo chơi ngoài thành, Ngài đã trực tiếp nhìn thấy khổ đau.  Ngài kinh ngạc phát hiện ra rằng những khổ đau này không chừa ai cả! Như lời ông Xa nặc đã trả lời: ‘Hễ làm con người tức là phải có bệnh, có lão, và có tử.  Không ai có thể tránh khỏi.’ Ngài lại càng ngạc nhiên thêm khi thấy hầu như ai cũng mặc nhiên chấp nhận sự thật này mà không hề làm một cái gì đó để tránh né.  Khổ đau là đầu mối khiến thái tử Sĩ Đạt Ta ưu tư không dứt và là một trong những nguyên nhân khiến Ngài quyết tâm cầu đạo giải thoát.

          Nếu tôi nhớ không lầm thì trong một đoạn kinh văn có mô tả: Sau khi đức Phật giác ngộ, Ngài bèn lên đường trở lại núi Tuyết để giáo hóa cho 5 anh em Kiều Trần Như, như Ngài đã hứa trước khi xuống núi.  Trên đường, Ngài có gặp một hành giả du già khổ hạnh vị hành giả này thấy Phật tướng hảo, nhưng lại quá sạch sẽ, gọn gàng, trông không giống một vị du già sư, bèn hỏi: “ Ngài là ai? Tu hạnh gì? Sao trông nhẹ nhàng, tự tại vậy?”  Đức Phật trả lời: “Ta là Phật, là bậc giác ngộ, đã thấu rõ mọi lẽ sanh diệt của tất cả các pháp thế gian nên không còn luân hồi sanh tử nữa!.”  Vị du già sư nghe xong, quay lưng bỏ đi.  Ông vừa đi, vừa lắc đầu không tin, và trong đôi mắt có vẻ thương hại Phật vì nghĩ rằng Phật đã mất trí nên mới dám xưng tụng mình như vậy!

           Câu chuyện cho chúng ta thấy nếu Phật chỉ nói về sự giác ngộ của Ngài thì có lẽ không ai có thể hiểu nổi được Ngài nói cái gì! Cái mà chúng ta kinh nghiệm nhiều nhất đó là đau khổ.  Và chính vì vậy, đức Phật đã dạy chúng ta cách nhìn thấy sự thật về đau khổ để tìm con đường diệt khổ (đạo đế).  Sự thật mà nói, dù chúng ta đã trải nghiệm nhiều về đau khổ, nhưng phần nhiều chúng ta chỉ biết sợ khổ; và hầu như, ít khi nào học được gì nhiều từ đau khổ.  Bằng chứng là chúng ta luôn chạy theo vật dục để kiếm tìm hạnh phúccố tránh né, càng nhiều càng tốt, tất cả những gì mang lại khổ đau.  Thậm chí mình phát tâm tu là cũng vì ‘sợ khổ’. Thế mà oái oăm thay, mình lại cứ đụng phải khổ đau hoài!

         Thực ra, khổ đau không phải lúc nào cũng là điều tiêu cực đáng chán, đáng sợ; ngược lại, có nhiều lúc chúng ta cần có đau khổ để thức tỉnh bản thân.  Như vậy, đau khổ là một vị thầy, nhắc nhở chúng ta phải biết ‘hồi đầu hướng thiện’.  Cho nên trong 2 câu đầu của 10 Điều Tâm Niệm, Phật dạy:

1.  Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh.

2.  Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu sa nổi dậy…

Cái bệnh khổhoạn nạn ở đây đóng một vai trò cần thiết trong đời sống tu tập.  Đó là chúng giúp diệt trừ dục vọng và kiêu sa.  Như vậy, có tuệ giác nằm bên trong bệnh khổhoạn nạn.  Chỉ có điều là chúng ta có nhìn thấy cái tuệ giác bên trong đó hay không? Vì phần nhiều chúng ta chỉ biết than oán và lo sợ.  Chính tâm phiền nãosợ hãi này đã che lấp tuệ giác của mình.  Cho nên, khiến mình không vận dụng được cặp mắt chánh tri kiến để thấy rõ giá trị của bệnh khổhoạn nạn.

Phật dạy rằng khi mình thật sự cảm nhận được nỗi đau khổ trực tiếp, chúng ta ngay lập tức buông bỏ, cũng giống như khi mình cầm lên cái chảo sắt đang nóng bỏng sẽ khiến mình rút tay lại (trích đoạn từ bài dịch ‘5 Bước Hóa Giải Tính Ghen Tức’).  Khi chúng ta cảm thấy cái đau khổ cùng cực, mình sẽ muốn được giải thoát khỏi chúng ngay vì mình học được từ tuệ giác nằm bên trong mỗi kinh nghiệm, đặc biệt là càng thống khổ thì tuệ giác càng sâu. 

            Như câu chuyện về nàng Liên Hoa Sắc, con một trưởng giả vô cùng sang giàu.  Lúc lên 16 tuổi Liên Hoa Sắc lấy chồng. Sau thời gian chung sống với chồng, Liên Hoa Sắc sinh một bé gái. Nhưng cảnh đời trớ trêu cha chồng chết sớm, mẹ chồng dụ dỗ chồng của Liên Hoa Sắc vào con đường mất hết đạo lý, và bà còn đối xử tệ bạc với Liên Hoa Sắc. Cuộc sống của Liên Hoa sắc không khác một tớ gái trong gia đình.  Quá buồn tình uất ức, Liên Hoa Sắc trốn nhà ra đi, bỏ con lại cho chồng, và cũng không dám trở về với gia đình cha mẹ nên lang thang đó đây, kiếm kế sinh nhai. Sau mấy năm ổn định lại tinh thần, hương sắc phục hồi, Liên Hoa Sắc tái giá với một thương gia giàu có. Vì sự nghiệp buôn bán ngược xuôi, chồng Liên Hoa Sắc ít có ở nhà.

            Nhờ có tay buôn bán, chồng của Liên Hoa Sắc làm ăn ngày một phát đạt. Một hôm chồng bà lén dẫn về một nàng hầu trẻ đẹp. Để tránh xáo trộn trong gia đình, chồng bà tậu một biệt thự riêng để nàng hầu cư ngụ. Nhiều đêm, thương gia lấy lý do giao tế, thăm viếng bạn bè, để đến nhà riêng ăn ở với nàng hầu. Nghe bà con làng xóm xì xầm, Liên Hoa Sắc để tâm theo dỏi. Vào một đêm, Liên Hoa Sắc đi bắt ghen kẻ cướp chồng mình. Khi đột nhập vào ngôi nhà riêng của chồng bắt gặp hai người đang tâm tình.  Nhưng than ôi! Nàng hầu của chồng chính là con gái mình của đời chồng trước. Tâm thần bấn loạn, Liên Hoa Sắc ngã ra bất tỉnh.  Chán nản thế thái nhân tình, Liên Hoa Sắc quyết đi làm gái điếm để phá hoại gia thất của các chàng sở khanh.

          Một hôm, Liên Hoa Sắc đến ẩn nấp trong một hoa viên nằm trên con đường ngài Mục Kiền Liên thường đi qua vào sáng sớm.  Liên Hoa Sắc đón đường ra chọc ghẹo. Nhờ có đạo lực, ngài Mục Kiền Liên dừng lại từ tốn hỏi thămquyết tâm thuyết phục người dâm nữ trở về nẻo thiện.  Ngài dạy Liên Hoa Sắc: Tâm hồn bất tịnh thì hãy đem Phật pháp mà tẩy. Đức Phật của tôi có hàng vạn pháp môn rất khế lý khế cơ, con người có thể tùy theo hoàn cảnh, khả năng, để chọn pháp môn tu tập.  ‘Mê nhất kiếp, ngộ nhất thời’, qua lời giải thích an ủi đạo lý, Liên Hoa Sắc tỉnh ngộ, nét mặt trở lại tươi tỉnh, xin đi theo ngài Mục Kiền Liên để bái yết Phật.  Liên Hoa Sắc được Phật cho phép xuất gia, trở thành tỳ kheo ni gương mẫu, và về sau Liên Hoa Sắc chứng quả A La Hán, trở thành vị tỳ kheo nithần thông số 1.

          Tỳ kheo Ni Liên Hoa Sắc đã thấu rõ tuệ giác bên trong hoàn cảnh đầy bất hạnh của mình.  Khi quản chiếu sâu xa cuộc đời của Tỳ Kheo Ni Liên Hoa Sắc, chúng ta thấy sự nổi bật của đau khổ, luôn biến hoá, thay đổi tiến trình đời sống của bà. Chúng ta thấy bà sinh ra trong cảnh giàu sang, rồi sau khi lấy chồng, có con.  Đây có thể là giai đoạn hạnh phúc nhất của cuộc đời bà.  Nhưng sau đó, bất hạnh bủa vây sau khi cha chồng qua đời.  Khi lập gia đình lần thứ hai, bà lại có những ngày an vui, hạnh phúc cho đến khi chồng bà lén lút có nàng hầu.  Khổ đau xen kẽ hạnh phúc.  Nhưng chính nhờ những kinh nghiệm đau khổ mà ngài Liên Hoa Sắc đã dễ dàng thấu hiểu và thực hành đúng những pháp môn Phật đã chỉ bày, và nhanh chóng chứng thành quả thánh A La Hán.

          Đúng là: ‘khổ đau là bạn, hoạn nạn là thầy.’ Khổ đau là người bạn chân thật, không dấu diếm, khoe khoan, không màu mè, kiểu cách.  Nó trực tiếp thức tỉnh chúng ta phải nhìn lại đời mình, xem những giá trị mình đang theo đuổi có thực sự quan trọng như mình nghĩ hay không?!  Hoạn nạn cũng vậy, nó đã dạy chúng ta biết dừng lại để nhìn thấy rõ đâu là hạnh phúc chân thật, đâu là chân giá trị của đời sống
 

          Nhờ có chánh tri kiến, chúng ta thấy rằng ai cũng cần có khổ đau vì khổ đau là một liều thuốc đắng giúp trị lành những căn bệnh bất trị. Chúng ta cảm thấy khổ đau không phải là một cái gì thật đặc biệt, chỉ có mình phải chịu như trong câu chuyện Phật dạy bà Kisa Gotami về cái chết của đứa con 7 tuổi của bà. Ai cũng đã từng trải nghiệm khổ đau, bất kể kẻ sang, người hèn. Cứ mỗi lần kinh nghiệm với khổ đau chúng ta lại thấy được nhiều điều giá trị.  Và nếu chúng ta biết dừng lại, quán chiếu những kinh nghiệm đó, mình sẽ tìm thấy cái tuệ giác ngay chính trong kinh nghiệm khổ đau đó. Do đó, khổ đau không còn là kẻ thù mà có thể là một người bạn tuy khó tính, nhưng rất chân thật mà ai cũng cần phải có để giúp mình tu tập, chuyển hóa.

                                                                              Thiện Ý
                                                                         (tháng 11, 2015) 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1296)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1418)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1313)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1395)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1376)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1277)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1337)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1344)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2032)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1380)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1397)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1276)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1528)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1363)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1233)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1205)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1265)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1247)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1393)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1116)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1111)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1170)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1301)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1329)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1100)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1207)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1146)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1291)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1284)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1411)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1512)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1265)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1253)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1385)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1416)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1330)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1659)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1307)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1310)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1344)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1198)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1221)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1351)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1464)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1521)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1683)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1549)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1437)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1231)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant