Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chuyển Hóa Nhiễm Tâm Phiền Não

04 Tháng Mười Hai 201518:26(Xem: 9764)
Chuyển Hóa Nhiễm Tâm Phiền Não

CHUYỂN HÓA NHIỄM TÂM PHIỀN NÃO

 Lama Zopa Rinpoche
Chân Như Việt dịch

 
Chuyển Hóa Nhiễm Tâm Phiền Não


Phương pháp công hiệu nhất để tịnh hóa nghiệp phiền nãothực hành thanh tịnh nghiệp chướng bằng minh chú Kim Cang Tát Đỏa. Chừng nào nghiệp còn chưa được tịnh, quý vị sẽ còn tiếp tục bị độc phiền não giày vò trong các kiếp vị lai.

Có thể một buổi sáng khi thức giấc, quý vị cảm thấy trầm uất mà không có lý do cụ thể. Nếu không giải quyết được vấn đề này bằng thiền định thì một giấc ngủ hoặc đi đâu đó nghỉ ngơi hay lái xe dạo một vòng bên ngoài cũng giúp ích. Nếu không, quý vị sẽ càu nhàu trầm uất và khiến nhiều người quanh mình khó chịu. Khi nổi sân, đủ loại niệm tưởng tiêu cực, khó áp chế tràn ngập tâm quý vị.

Nếu quý vị trầm uất vì rơi vào một tình cảnh nào đó, có thể vận dụng các phương pháp thiền định dành cho các tình huống cụ thể. Nhưng nếu chỉ cảm thấy buồn bã vô cớ thì tốt nhất là nên thực hành phát tâm Bồ đề.

Quý vị có thể tụng bài kệ trong lễ cúng dường Đạo sư (Guru Puja) “Xin hãy gia trì cho con để con nhận chân căn bệnh vị kỷ ái ngã là cánh cửa dẫn đến những khổ đau không mong muốn.” Hãy trách cứ những tư tưởng ma chướng vị kỷ gây ra trầm uất cho quý vị. Rồi tụng tiếp vần thơ kế: “Xin hãy gia trì cho con để con nhận biết rằng kính quý người khác, phát tâm Bồ đề, tâm dẫn dắt hết thảy chúng sinh mẹ đến bến bờ hỷ lạc là cánh cửa dẫn vào những phẩm tính thiện căn toàn hảo.”

Một trích dẫn khác trong lễ cúng dường Đạo sư là: “Ngay cả khi tất cả chúng sinh tệ bạc với con, con xin nguyện yêu thương họ hơn cả cuộc sống của mình.” Nếu quý vị có thể đọc những bài tụng này hàng ngày thì hết sức lợi lạc, đặc biệt vào những lúc quý vị cảm thấy trầm uất. Như thế, quý vị sẽ dùng chính phiền não buồn khổ của mình để thực hành ý nghĩa của hai đoạn kệ này; rằng tất cả mọi trục trặckhổ não đều từ tâm vị kỷ ái ngã mà ra, cho nên “cái tôi” phải là đối tượng bị bác bỏ, phải bị khước từ. Tất cả nguồn hỷ lạc của quý vị và của tha nhân, bao gồm mọi chứng đắc cho đến khi giác ngộ viên mãn - mọi hạnh toàn hảo và phúc lạc đều đến từ tâm thương yêu ái trọng tha nhân, gọi là tâm Bồ đề.

Vì rằng tất cả những điều thánh thiện đều do tâm ái trọng tha nhân mà sinh ra, chúng nương dựa vào chúng sinh. Do vậy, chúng sinh hữu tình phải luôn được mãi yêu thương ái trọng. Quý vị phải đền đáp lại lòng nhân từ của chúng sinh quý giá này, giúp họ bằng bất cứ cách gì có thể. Làm sao để thực hiện được điều này đây? Có hàng triệu vô số lần họ đã sinh trong thân làm vua chúa nhưng chẳng có quyền lực hay sự giàu sang nào có thể giải thoát họ khỏi khổ đau của sinh tử. Cách tốt nhất để đền đáp lòng nhân từ của họ là hãy thực hành pháp Lamrim để chuyển hóa tâm thức vô minh, bám luyến, vị kỷ thành một tâm lành mạnh thuần khiết. Bằng cách tu tập đạo lộ đến giác ngộ, quý vị sẽ dễ dàng giải thoát những chúng sinh khác. Do vậy, phương cách tốt nhất để đền đáp lòng nhân từ của chúng sinhthiền định và trau dồi tâm Bồ đề.

Nhận.

Mọi chúng sinh đều là cội nguồn của toàn thể quá khứ, hiện tại và tương lai của quý vị. Hãy phát khởi tâm bi mẫn bằng cách suy niệm thế này: “Tôi sẽ nhận về tim mình tất cả khổ và nguyên nhân tạo khổ (những phiền nãocác chủng tử nghiệp bất thiện) bao hàm cả lửa thiêu trong các địa ngục nóng, đá buốt trong những tầng địa ngục băng giá và tất cả những hoàn cảnh bức bách khó chịu, xấu xa, loạn lạc nhiễm ô của con người.” Suy nghĩ này sẽ triệt tiêu thái độ vị kỷ ái ngã. Một khi tâm vị kỷ ái ngã bị tiêu diệt, quý vị nên có một thời thiền ngắn về tánh không.

Cho
Sau khi tâm vị kỷ ái ngã bị diệt trừ, hãy lan tỏa yêu thương bằng cách cho đi nguồn hạnh phúc riêng của quý vị, công đức của quý vị và tất cả những thứ tốt đẹp mà quý vị có được gồm cả thân thể, sự giàu sang và các tài sản sở hữu. Tất cả mọi mong nguyện của chúng sinh đều được hoàn mãn như thể họ sở hữu viên bảo châu như ý. Khi trao tặng cho họ những điều này, quý vị đã khởi tạo công đức vô lượng. Quý vị có thể tụng chú trong lúc họ thọ nhận mọi thứ mà họ cần và mong có. Thực ra, họ không nhận biết cái họ thực sự cần là gì đâu. Cái điều mà họ cần là gặp được chánh Pháp. Nhưng nếu không hiểu được lợi lạc của chánh pháp, họ sẽ sở cầu những thứ không phải là chánh pháp.

Thọ nhận những điều tốt đẹp như thế giúp họ hiện thực hóa con đường tâm linh, thanh tịnh hai chướng (để thành tựu giải thoátgiác ngộ). Họ thành tựu sắc thân của đức Phậtchứng đắc giác ngộ. Hãy nghĩ như vầy: Những điều mình làm vì chúng sinh mới thù thắng làm sao! Mình đã bao phen vào ra sinh tử trong các tiền kiếp khi làm việc chỉ vì lợi lạc của riêng mình và chẳng chứng ngộ được bất cứ điều gì. Mình vẫn lang thang trong luân hồi. Mình chưa bao giờ xả thân khi phụng sự các chúng sinh khác. Ngay cả nếu phải xả thân vì lợi ích của tha nhân, giúp họ chấm dứt tạo nghiệp bất thiện để không tái sinh vào các ác đạo và vì tâm thức của họ chuyển hóa thành pháp thânsắc thân của chư Phật rồi chứng đắc giác ngộ, thì đây cũng là điều vô cùng lợi lạc đáng làm.

Thiền quán về lòng từ mẫn bao la và sự quý giá của hết thảy chúng hữu tình. “Mọi chúng sinh mẹ đều là cội nguồn hỷ lạc quá khứ, hiện tạivị lai của con. Chư Phật, Pháp và Chúng chung tôn đời vị lai thị hiện tịnh hóa các ác nghiệp bất tịnh của con nhằm giúp con thành tựu mọi chứng đắcquả vị giác ngộ. Tất cả những điều này diễn ra trên cơ sở của những chúng sinh khác. Vì vậy, mọi chúng hữu tình là điều quý giá nhất đời con. Bất kỳ điều gì thực hiện không vì phụng sự cho chúng sinh đều hoàn toàn vô nghĩa.” Điều này bao hàm cả chịu đựng trầm uất phiền não thay cho họ. Không có gì sánh bằng làm việc vì lợi lạc của chúng sinh. Những điều khác đều vô nghĩa cả. Chịu thay phiền não khổ đau cho họ bằng cách suy nghĩ rằng đây không phải là phiền não của bản thân tôi nhưng là phiền não của vô lượng chúng sinh, đây là phiền não của họ, khổ đau của họ. Thật thù thắng khi trao cho họ phúc lạc của giải thoát khổ đau trong sinh tửân sủng hỷ lạc của  quả vị giác ngộ viên mãn!

Hãy cảm nhận niềm hỷ lạc từ đó! Đây là phiền não của chúng sinh, vì thế điều thù thắng nhất là chịu đựng phiền não thay họ và giúp những ai đang khổ đau vì nhiễm tâm phiền não được tận hưởng hạnh phúc. Hãy hoan hỉ vì quý vị đã thọ nhận cơ hội trải nghiệm khổ đau vì kẻ khác. “Thật tuyệt diệu biết bao khi con chịu đựng khổ não thay cho hết thảy chúng hữu tình!”


Hãy thực hành pháp Tong-len (cho và nhận) vào giấc sáng, chiều và tối.

Suy đi ngẫm lại: “Con thật sự may mắn biết bao khi có thể chịu đựng đau khổ thay cho người. Con đã nguyện cầu để nhận tất cả khổ não của chúng sinh về mình và những cầu nguyện đó sẽ trở thành hiện thực. Thật kỳ diệu thay! Nó làm đời sống của con thật giàu có và tràn đầy ý nghĩa. Thật cát tường biết bao khi con chịu thay đau khổ này cho hết thảy chúng hữu tình.”

Hãy nghĩ về ý nghĩa đời mình, một phương pháp tâm lý có thể tạo sự khác biệt đáng kể bởi vì phần lớn đau khổ là do khái niệm về đau đớn bị khuếch đại của bạn. Hoàn toàn có thể giảm thiểu hoặc thậm chí loại trừ hoàn toàn phiền não đau đớn bằng tâm thức. “Mục đích đời con không chỉ là để mạnh khỏe, giàu sang, có thanh danh sự nghiệp, nhiều bạn bè bằng hữu. Kể cả khi con sở hữu tất cả những thứ này, đó cũng không phải là cùng đích của đời con. Ngay cả nếu con có thọ mạng một ngàn năm tuổi hoặc sung mãn khỏe mạnh trong ngàn đại kiếp, nếu trong con không có yêu thương và bi mẫn thì cuộc đời thật vô nghĩavô dụng, vì rằng con chẳng thể mang lại ích lợi gì cho ai cả. Sống như thế thật trống rỗng. Vì vậy, bất chấp chuyện gì xảy ra trong đời cũng chẳng là gì hết, con có hay không có sức khỏe, phiền não hay không phiền não, mắc hay không mắc bệnh ung thư, giàu có hay nghèo túng. Mục đích thực của cuộc đời con là làm cho cái chết của con cũng lợi lạc kẻ khác. Ngay cả nếu mắc bệnh ung thư, con cũng sẽ làm cho kinh nghiệm bệnh tật ấy hữu ích cho chúng hữu tình bằng cách dùng bệnh tật để trau dồi lòng bi mẫn và tâm Bồ đề, để thành tựu chứng đắcgiác ngộ viên mãn.”

Như thế, căn bệnh ung thư sẽ trở thành nhân của phúc lạc. Phiền não đau khổ cũng có thể được sử dụng để thành tựu giác ngộ vì lợi ích tất cả chúng sinh trong đời này và đời này những kiếp sau, đăc biệt tất cả những ai chịu khổ đau vì trầm uất phiền não – cũng giống như dùng nọc độc của rắn để bào chế ra vị thuốc trị nọc độc rắn vậy.

Quý vị sử dụng phiền não để chứng đạt giác ngộ. Theo cách này, phiền não sẽ trở thành nhân của hạnh phúc cho hết thảy chúng hữu tình đang gánh chịu phiền não khổ đau.  Hãy nghĩ thế này: “Cùng đích của cuộc đờivì lợi ích của chúng sinh, để giải thoát họ khỏi khổ đau và mang đến phúc lạc đời này và những đời sau. Ngay cả nếu con có mắc bệnh ung thư, nhiễm AIDS, bị phiền não giày vò v.v…, mục đích của đời con là mang phúc lạc đến cho tất cả chúng hữu tình bằng cách chịu thay họ những khổ não buồn đau.” Bằng cách này, cái trầm uất đau khổ lại trở thành con đường nhanh dẫn đến giác ngộ. Tương tự đối với căn bệnh ung thư, hãy dùng nó để nhanh chóng thành tựu giác ngộ. Nếu chịu đựng thay cho chúng sinh khác vì lợi ích của họ thì đây sẽ trở thành con đường giác ngộ nhanh chóng, vì chịu khổ đau thay cho chúng sinh khác là sự tịnh hóa hết sức vi diệu thù thắng. Cực kỳ tuyệt hảo!

Có một vị tăng ở Thái Lan đi kinh hành xuyên đất nước này. Khi ông tới một con sông lớn, bên bờ sông có một người phụ nữ bị bệnh hủi và máu mủ rỉ ra từ những vết thương của bà. Bà xin vị tăng cõng qua con sông nhưng ông từ chối giải thích rằng ông không thể phạm giới mà đụng vào thân thể phụ nữ. Sau đó một thời gian, một trong những đệ tử của vị tăng này cũng đi kinh hành qua đây và khi nhìn thấy người đàn bà tội nghiệp ấy, lòng từ mẫn bao la dâng tràn trong tâm ông. Không nề hà, ông đã bế người phụ nữ lên và cõng bà qua sông dù thân thể bà có nhiều vết thương còn đang lở loét. Khi đến giữa dòng sông, người phụ nữ thị hiện thành một Yogini Kim Cương trì và chuyển cả thân và tâm của vị tăng này về cõi tịnh độ của Yogini Kim Cương trì. Có nghĩa là từ đây, vị tăng này đã chứng quả vị giác ngộ viên mãn, vì bất kỳ ai đặt chân đến cõi tịnh của Yogini Kim Cương trì thì đều chứng đắc giác ngộ tại đó.  Sinh vào một cõi tịnh độ là cách nhanh nhất để thành tựu giác ngộ nếu điều đó chưa xảy ra trong kiếp hiện tiền của chúng ta. Trong trường hợp này Yogini Kim cương trì đã thị hiện trong thân một người đàn bà phàm thường tội nghiệp mắc bệnh hủi để đánh thức tâm đại bi của người đệ tử. Tâm đại bi này nhanh chóng tịnh hóa toàn bộ ác nghiệp nặng nề đã che chướng ông không nhìn thấy vị Yogini Kim Cương trì.

Trong trường hợp của vị đại hành giả Tây Tạng, ngài Milarepa, những khối nghiệp quả ngăn trở ngài nhìn thấy Yogini Kim Cương trì đã được tịnh hóa nhờ tinh thần sự phụng sự thuần khiết của ngài đối với vị Thầy thánh tăng Marpa.

Cũng tương tự cho quý vị. Nếu trên cơ sở kinh nghiệm được một tâm đại bi mạnh mẽ chịu khổ đau thay cho chúng sinh, sự thiền định chịu đựng đau khổ thay cho tha nhân sẽ là con đường nhanh dẫn đến quả vị giác ngộ, cũng giống như tấm gương của vị tăng kia. Đó là con đường nhanh dẫn đến quả vị giác ngộkinh nghiệm căn bệnh ung thư, trầm uất khổ não hay bất kỳ một đau khổ nào vì lợi ích hữu tình đều có tác dụng thanh tịnh hóa ngoài sức tưởng tượng.

Đau khổphiền não có thể lợi lạc vì nó cho phép quý vị dễ dàng nhìn thấy nỗi đau của kẻ khác. Dùng kinh nghiệm về đau khổ riêng của bản thân, quý vị có thể cảm nhận một cách rõ ràng những đau đớn không sao chịu thấu của vô số hằng hà chúng sinh khác. Có rất nhiều người bị phiền não giày vò và nhiều người khác đang tạo ác nghiệp sẽ phải hứng chịu trong những kiếp vị lai. Hứng chịu phiền não đau khổ thay cho họ có lẽ còn mãnh liệt hơn là thực hành pháp mật tông vì nếu hành mật tông không đúng cách, dựa trên cơ sở của căn bản ba đạo lộ, thì đó sẽ không phải là con đường nhanh dẫn đến giác ngộ.

Khi cảm thấy phiền não tiêu cực quý vị có thể tự nhủ thế này: “Mình đã tiêu trừ rất nhiều ác nghiệp phiền não tích lũy qua vô lượng kiếp trong quá khứ.” Hãy hoan hỉ! Quý vị phải cảm thấy suối nguồn hỷ lạc vô biên khi được trả nghiệp thay vì xem phiền não như điều gì đó không hay không tốt.

Như có đề cập trong lễ cúng dường Đạo sư, chúng hữu tình và hoàn cảnh sống của họ chồng chất phiền não, ác nạn không sao tưởng tượng nổi, chúng nối đuôi nhau hết cái này đến cái khác như mưa sa,  khổ nãohậu quả của các bất thiện nghiệp. “Xin hãy cho con nguồn ân sủng để con nhận ra khổ đau phiền não của con như là cách tiêu trừ các chủng tử nghiệp bất thiện, và gia trì cho con luôn có năng lực chuyển hóa nghịch cảnh thành đường tu giác ngộ.” Quý vị có thể tụng đọc chú này trong khi thiền định.

Ví dụ, khi quý vị giặt một miếng vải dơ bẩn, nước đen chảy ra với bụi đất. Quý vị đâu có xem đất bẩn đấy là thứ xấu vì điều đó có nghĩa là mảnh vải của quý vị giặt sẽ thành sạch sẽ. Cũng như thế, khi quý vị thực hành pháp thì các nghiệp tiêu cực có thể trổ chín làm cho quý vị mắc bệnh, do quý vị đã thanh tẩy rất nhiều bất thiện nghiệp qua thực hành pháp. Vì thế, quý vị phải vui mừng hoan hỉ khi mình u buồn trầm uất!

Phiền não khổ đau hiện diện trước tiên là do chúng ta bị chi phối bởi ngã, bởi tâm vị kỷ ái trọng tự thân, bởi bám luyến, sân hận, phá phạm giới tu và các hành vi làm buồn lòng các bậc đạo sư linh thiêng, những vị thầy tâm linh trong các kiếp quá khứ. Phiền não đau khổ này gây ra bởi ngã, bởi tâm vị kỷ chấp thật. Vậy, thay vì chấp nhận cái trầm uất đó  thì hãy trả nó về với cái tâm vị kỷ ái ngã. Dùng phiền não như trái bom để công phá những niệm tưởng lầm lạc về bản ngã. Sau đó hãy thiền quán về tính không của bản ngã hiện hữu độc lập.

Đây là một số phương cách sự dụng tâm phiền não trầm uất để thành tựu giác ngộ nhanh chóng. Sử dụng nó để trau dồi lòng từ ái và tâm Bồ đề, quý vị có thể tích lũy công đức vô lượng bao la như hư khôngthanh tịnh một lượng ác nghiệp không thể tưởng tưởng được. Nó được sử dụng như trái bom mạnh mẽ công phá suy niệm lầm lạc về sự cái ngã hiện hữutự tính, cái đã gây ra đau buồn phiền não cho chúng ta. Nó chính là ma chướng cản lối giác ngộ và ngáng trở sự giải thoát khỏi luân hồi sinh tử, là cánh cửa dẫn đến mọi khổ đau.

Quý vị cũng cò thể thực hành một số pháp tu sơ khởi như tụng minh chú Kim Cang Tát Đỏa để thanh tịnh nghiệp chướng gây ra phiền não.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1209)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 938)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1256)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 724)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 694)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 765)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 773)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 758)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 751)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 905)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 787)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 946)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 950)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 877)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 882)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 814)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 966)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 899)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 837)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 935)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 858)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 807)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 907)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 843)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1107)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 872)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 958)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1100)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1572)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1113)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1183)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1059)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 922)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 872)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 916)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 762)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1442)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1317)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1280)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1221)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1335)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1286)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1425)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1305)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1168)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1210)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1273)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1253)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1365)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant