Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Phật Pháp Độ Vua A Dục Hoàn Thiện

18 Tháng Mười Hai 201512:39(Xem: 8399)
Phật Pháp Độ Vua A Dục Hoàn Thiện
Phật Pháp Độ Vua A Dục Hoàn Thiện

Thích Đạt Ma Phổ Giác

Phật Pháp Độ Vua A Dục Hoàn Thiện


Cách thời Phật hiện tiền khoảng một trăm năm có vua A-dục, do có tài nên ông ta bình thiên hạ dễ dàng nhưng thời kỳ này, người ta gọi ông là ông vua độc ác. Khi sắp lên ngôi vua, ông đã giết gần hết số anh em cùng cha khác mẹ, giết vô số quan lại và hàng trăm ngàn cung phi mỹ nữ. Mỗi ngày ông thường đem nhiều phạm nhân ra hành hình, lấy thú vui giết người làm niềm vui chính mình. Ông giết người không gớm tay, riết rồi không còn phạm nhân để giết nữa. Một số quan cận thần thấy thế, mới tìm cách khuyên nhủ nhà vua, tìm một truyền nhân giết người thay thế cho vua, để vua bớt mang tiếng bất nhân, bất nghĩa. Điều kiện duy nhất, làm sao tìm được một người có tâm giết hại giống như nhà vua. Lệnh được truyền đi qua thời gian gần một tháng, mới tìm được người như ý muốn. Tên này là một thợ săn khét tiếng, không những săn thú mà còn hành hung người một cách tàn nhẫn. Để chứng tỏ mình là kẻ giết hại không gớm tay, tên thợ săn liền giết cha mẹ hắn, để chứng minh cho hành động của mình. Sau khi đến gặp nhà vua, hắn đưa ra điều kiện hễ ai vào đó thì không được ra, dù là vua.

 Thế là địa ngục trần gian được lập ra, dưới sự cai quản của hắn. Bên ngoài trang trí giống như hoa viên du lịch để làm mờ mắt thiên hạ. Một hôm, có thầy Tỳ kheo đi hóa duyên vô tình lạc vào địa ngục trần gian. Bỗng một giọng nói đanh thép vang lên, này gã ăn mày kia, ngươi đã lạc vào địa ngục trần gian, hễ ai đặt chân vào đây coi như tan thây mất mạng. Này gã đầu trọc kia, ngươi đã tận cùng bằng số rồi nên mới lạc vào đây, số mi thật xui xẻo, thôi thì hãy ngoan ngoãn chờ ta ban tội chết cho. Ha! Ha! Biết khó bề thoát thân, thầy Tỳ kheo liền tìm kế hoãn binh, nên nói với tên sát nhân rằng: Tôi là người tu hành, tôi không sợ chết đâu, chỉ vì chưa chứng được đạo quả bồ đề, nên ông hãy thương tình gia hạn cho tôi một tháng. Có lẽ nhờ sự gia hộ của chư Phật, tên sát nhân đã kỳ hạn cho thầy Tỳ kheo bảy ngày.

 Đây là cơ hội tốt nhất để thầy Tỳ kheo cố gắng tu tập, nhưng thời gian bảy ngày quá ngắn ngủi. Đối diện với cái chết sắp kề cận bên mình, ấy thế mà đã sáu ngày trôi qua, thầy Tỳ kheo vẫn không có một tia sáng giác ngộ nào hết. Buổi chiều ngày thứ sáu, một phụ nữ được đưa vào với tội danh ngoại tình lăng chạ với người khác, nên bị hành hình rất dã man rồi cuối cùng chết liền tại chỗ. Nhìn thấy hình ảnh thảm thương đó, thầy Tỳ kheo nghĩ đến thân phận con người rất mỏng manh tạm bợ, mạng người không có giá trị gì hết, thấy đó rồi mất đó. Thầy Tỳ kheo chợt nhận ra đạo lý vô thường ngay nơi thân này, không có gì là thường còn vĩnh viễn, và cứ như thế thầy Tỳ kheo quán sát một cách rõ ràng tường tận, nhờ miên mật tinh cần thầy đã chứng quả A-la-hán trong đêm cuối cùng.

 Tờ mờ sáng, tên sát nhân đã vào với vẻ mặt lạnh lùng, giọng nói oang oang nghe đến rợn người: “Giờ chết đã đến, ngươi còn ân hận gì không” ? Thầy Tỳ kheo thản nhiên trả lời: “Hôm nay là ngày tốt, ông muốn giết ta bằng cách nào cũng được.”Tiếng cười vang lên thật quái đản, chúng ném thầy Tỳ kheo vào cái nồi đồng thật lớn, bên ngoài chất thật nhiều củi rồi châm dầu đốt lửa, lửa đã cháy đỏ hừng hực thật lâu, khiến cho nước trong nồi sôi lên sùng sục, kéo dài khoảng gần hai tiếng đồng hồ, sức nóng đã làm cho tên sát nhân phải đứng xa ra. Tên sát nhân yên trí rằng thầy Tỳ kheo đã chết, nên cho người mở nắp nồi ra xem. Không ngờ ai nấy đều ngạc nhiên, chứng kiến vị Tỳ kheo đang ngồi kiết già, sắc mặt người trong sáng lạ thường, tỏa ra một ánh hào quang diệu kỳ làm cho tên sát nhân và mọi người hoảng hồn sợ hãi, liền tấu trình lên cho vua A-dục biết.

 Vua A-dục nhìn thấy tận mắt những đều chưa từng thấy từ trước đến nay. Cuộc đời của ngài đã từng đi chinh chiến khắp nơi đánh đông dẹp tây, tung hoành các nước để thỏa mộng ước bình thiên hạ, không một ai có thể qua khỏi lưỡi gươm của ngài. Vậy mà thầy Tỳ kheo này, vẫn sừng sững hiên ngang ngồi trong nồi đồng với nước sôi sùng sục. Chứng kiến tận mắt, hình ảnh người tu hànhdiệu dụng không thể nghĩ bàn, ngài bất giác rơi lệ, quỳ xuống xin thầy Tỳ kheo tha thứ tội lỗi, ăn năn sám hối hứa chừa bỏ những điều sai trái từ trước tới nay do mình gây ra.

 Sau đó thầy Tỳ kheo giảng pháp cho nhà vua nghe về đạo lý làm người và nhân quả nghiệp báo. Vua liền thức tỉnh phát nguyện quy y Tam Bảo hộ trì chánh pháp, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp, tin theo lời Phật dạy giữ gìn năm điều đạo đức.

 Thứ nhất không được giết người và hạn chế tối đa giết hại các loài vật. Không gian tham trộm cướp của người một cách bất chính trộm là lấy lén, cướp là công khai lấy, giành giựt lấy. Ba là không được tà dâm, Phật tử có quyền lấy vợ lấy chồng, nhưng không được quan hệ với người khác ngoài vợ chồng chính thức. Ăn ở với người cùng huyết thống gọi là loạn luân, quan hệ giữa người và thú gọi là cuồng dâm. Tự mình khoái lạc gọi là thủ dâm, quan hệ với người đồng phái gọi là đồng tính luyến ái hay còn gọi là pê-đê, còn quan hệ nếu xảy ra với người trưởng thành và trẻ chưa tới tuổi vị thành niên gọi là bạo dâm. Thứ tư là không được nói dối để hại người. Thứ năm là không uống rượu và dùng những chất gây say có hại cho sức khỏetinh thần. Nhà vua nghe xong phát nguyện đời đời kiếp kiếp hộ trì Tam bảo giúp dân chúng an cư lạc nghiệp theo tinh thần Phật dạy.

 Một vị vua tàn bạo giết người không gớm tay nhưng nhờ gặp giáo pháp của Như Lai thế tôn, bậc chánh đẳng chánh giác, vua A-dục đã được thầy Tỳ kheo dùng thân giáo hóa để trở thành một người Phật tử thuần thành, chuyện này từ xưa đến nay thật là hiếm có. Chỉ có chánh pháp của Phật mới có công năng trị lành tất cả bệnh, nếu ai biết hướng tâm quay về, dù người đó tàn bạo, độc ác tới đâu, cụ thể như vua A-dục. Một khi đã thấm nhuần giáo lý Phật đà rồi, thì có thể trở thành con người hiền lương đạo đức và không làm tổn hại cho ai. Ban đầu vua A-dục là một vị vua khét tiếng tàn bạo và độc ác không ai bằng, lấy sự giết hại làm niềm vui chính mình. Sau nhờ sự diệu dụng không thể nghĩ bàn của Phật pháp, vua A-dục trở thành vị hoàng đế anh minh sáng suốt, hết lòng thương yêu dân chúng như con đẻ của mình.

 Ngày hôm nay, Phật giáo được lưu truyền rộng khắp là nhờ một phần công lao của ngài, một người đã giác ngộphát nguyện hộ trì Tam Bảo. Nếu không phải là giáo pháp của Như Lai thì làm sao có thể chuyển hóa được vị hôn quân mê muội này. Giáo pháp của đức Phật không thể nghĩ bàn, không những thuyết phục bằng lời nói, mà còn dùng thân giáo của chính mình để đối tượng được cảm hóa tâm phục, khẩu phục, không còn lý lẽ nào để nghi ngờ nữa. Nhờ được chuyển hóa mà vua A-dục trở nên người có công rất lớn trong việc phát triển và mở mang đạo lý làm người truyền rộng ra các nước phương xa. Cụ thể là con của ngài xuất gia đầu Phật và đã đến đất nước Tích Lan để truyền bá Phật pháp.

VUA A DỤC DÙNG PHƯƠNG TIỆN GIÁO HÓA

 Từ khi gặp được Phật pháp, vua A-dục mỗi khi ra ngoài đường, gặp bất cứ vị Tỳ kheo nào cũng đều bước xuống xe đảnh lễ và chào hỏi rất tôn kính, làm cho một vị quan đại thần tỏ vẻ không hài lòng và bất bình. Vị quan này quen theo lối phân biệt giai cấp, cho vua là trên hết không ai bằng. Người thời xưa quan niệm trời sinh ra vạn vật, nên các vị vua tự xưng là thiên tử, tức con trời. Vua thay mặt trời trị vì thiên hạ, nên vua là cao cả, là quí báu, thậm chí nếu thần dân thiên hạ lỡ đặt tên con mình đồng tên với gia tộc của vua, đều bị mang tội khi quân. Do đó, quyền lực của những ông vua thời phong kiến rất độc tôn, độc tài, muốn giết ai thì giết, muốn phong quan tiến chức cho ai thì phong, tùy ý giết người như vua A-dục thời kỳ chưa gặp Phật pháp.

 Phật phápcông năng gì mà chuyển hóa được vua A-dục, một con người bạo ác trở thành vị vua anh minh sáng suốt, vì lợi ích nhân loạilợi ích muôn loài? Trở lại câu chuyện, vị quan đại thần không chấp nhận các vị Tỳ kheo là người đáng tôn kính, đảnh lễ, thưa hỏi, cúng dường. Người xưa quan niệm rằng vua là trên hết, vua là con trời, ai gặp vua thì phải đảnh lễ cung kính, nếu không thì mang tội khi quân, sẽ bị trị tội tùy theo mức độ nặng nhẹ. Nếu là ngày trước, vua A-dục chưa biết Phật pháp, có lẽ quan đại thần ấy đã mồ xanh cỏ rồi, làm gì có thời gian để giải bày. Do vậy, vua A-dục vẫn im lặng không thèm trả lời.

 Để chứng minh cho sự hồi đầu của mình sau khi gặp Phật pháp, lấy tình thương bao dungtha thứđộ lượng. Nhà vua đã phương tiện giáo hóa quan đại thần bằng cách ra lệnh cho tất cả quan văn võ trong triều, mỗi người đều đem bán đầu súc vật, riêng vị quan đại thần phải bán đầu người. Đầu súc vật, các quan đều bán được hết, riêng đầu người của quan đại thần là không bán được. Vua A-dục mới hỏi cắc cớ, tại sao đầu người lại không bán được, mà đầu súc vật lại bán được, vậy đầu người hèn hạ nhất trên đời nầy hay sao? Vua lại hỏi thêm, chỉ cái đầu này hèn hạ hay các cái đầu khác cũng vậy? Viên đại thần ấp úng, không trả lời được nên cuối cùng đành im lặng, chờ sự chỉ giáo của vua A-dục. 

 Vua nói:Ta không nhờ Phật pháp thì đầu ngươi cũng chẳng kém chi đầu này, Phật pháp không thể nghĩ bàn, ngươi lấy tâm phàm tục đo lường thánh trí, giống như người mù sờ voi, ngươi cố ý muốn ngăn cản ta, đó là điều tốt theo cách nhìn của ngươi, vì ngươi trung thành với ta, đó là điều đáng khen ngợi, ta không phủ nhận điều ấy. Nhưng ngươi muốn ngăn cản ta, đảnh lễ các thầy Tỳ kheo, đó là do ngươi quá cống cao ngã mạn, thấy mình là trung tâm của vũ trụ, thấy mình là cao cả. Nếu mình là cao cả, tại sao đầu người không bán được, mà đầu súc vật lại bán được? 

 Con người dù hèn hạ đến đâu, một khi biết tu nhân tích đức làm mới lại chính mình, thì ai thấy cũng tôn trọng quý kính. Các thầy Tỳ kheo dám bỏ hết những gì đang có, để sống đời tỉnh thức rày đây mai đó, trên cầu thành Phật, dưới cứu độ chúng sinh, nhà ngươi có làm được như thế không, mà dám khinh khi coi thường. Đó là tâm niệm của ngươi quá nhỏ nhoi và ích kỷ. Trong cuộc đời này nếu mình làm không được thì nên tùy hỷ với người làm được, để được thêm tình yêu thươnghiểu biết. Tùy hỷ với người có nhân cách phi thường, chúng ta sẽ có thêm nhận thức đúng đắn về đạo đứcgiá trị chân thật trong cuộc đời

 Ta nay nhờ gặp Phật pháp, nên làm mới lại cuộc đời, bằng tất cả tấm lòng chí thành chí kính. Như vậy, ta có lầm lỗi chỗ nào mà ngươi dám ngăn cản ta, như thế có phạm tội khi quân hay không? Nghe được những lời nói chân tình của nhà vua, vừa là chỉ dạy, vừa là khuyên nhủ, vị quan đại thần thức tỉnh nhận ra lỗi lầm của mình, ông cúi đầu lạy tạ sám hối, nguyện từ nay về sau không còn nói những lời vô lễ ấy nữa. Một con người vô đạo như vua A-dục, nếu không gặp Phật pháp thì làm gì có được, những lời nói chân thành và hành động cao thượng như trên.

 Phật phápcông năng chuyển hóa tối tăm, u mê thành trong sáng hiện thực, chuyển hóa khổ đau thành an vui hạnh phúc, ngay tại đây và bây giờ. Chỉ có Phật pháp mới phù hợp với lòng người, con người được quyền làm chủ bản thân, họa phúc đều do mình tạo lấy, mình làm lành được hưởng phước, mình làm ác chịu khổ đau. Phật pháp rất thực tế và nhiệm mầu, ai phát tâm tu theo sẽ tự tin chính mình không còn bị lệ thuộcỷ lại vào bên ngoài. Dám làm, dám chịu trách nhiệm hoàn toàn trước những suy nghĩ, nói năng và hành động của mình, không đổ thừa cho ai hết.

 Nhờ tin sâu nhân quả, chúng ta không dám làm điều xấu ác, cái gì hại mình và người thì tìm cách chuyển hóa, nếu đã lỡ lầm gây tạo tội lỗi, thì cố gắng sám hối tìm cách từ bỏ, không lặp lại lỗi lầm xưa. Dám chịu trách nhiệm đối với sự sai trái của mình, hứa nguyện không tái phạm để mình và tha nhân ngày càng gắn bó nhau hơn, trong tinh thần đòan kết yêu thương giúp đỡ lẫn nhau.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1098)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1267)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 793)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 980)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 995)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1003)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 985)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1005)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1605)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1249)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 966)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1367)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1322)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1256)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant