Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Con Đường Trung Đạo

27 Tháng Mười Hai 201515:35(Xem: 10063)
Con Đường Trung Đạo

CON ĐƯỜNG TRUNG ĐẠO 

Thích Minh Thành

Con Đường Trung Đạo


Hỏi
: Có hai cách tu, một là buông bỏ muôn duyên nhất tâm niệm Phật và hai là tu trong mọi hoàn cảnh. Vậy người Phật tử nên chọn cách tu nào cho hợp lý?

Đáp: Đa số người tu thích chọn cách tu trong mọi hoàn cảnh. Tại sao ai cũng sợ cách tu buông bỏ muôn duyên vậy? Hay vì sợ phải xa chồng con, bỏ hết nhà cửa, tiền bạc, tài sản đã khó nhọc tích góp trong mấy chục năm để vào ngồi yên trong chùa? Nếu hiểu như thế là chưa thấy được ý nghĩa sâu xa của hai chữ ‘buông xuống’ mà chư Phật, Tổ đã chỉ dạy.

Bố Đại Hòa thượng hay Hòa thượng Túi Vải (hóa thân của Bồ tát Di Lặc), miệng lúc nào cũng cười toe toét, bụng phệ, mặt tròn, khi đi đâu cũng khoát trên vai một cái túi vải, ai cho gì ngài cũng đều bỏ vào túi. Khi gặp con nít, ngài lấy đồ vật trong túi ra phân phát cho chúng, vì vậy mà mấy đứa nhỏ thường bám theo ngài. Một hôm, có một vị Tăng ở xa nghe đồn về đạo hạnh của ngài, liền đi đến tham vấn.

Vị Tăng hỏi:

- Bạch Hòa thượng! Đại ý của Phật pháp là gì?

Ngài không nói gì chỉ buông tay cho túi vải trên vai rơi xuống đất.

Vị Tăng kia lại hỏi:

- Bạch Hòa thượng! Chỉ có vậy thôi hay còn gì khác nữa?

Khi ấy, ngài khom người xuống cầm túi vải vác lên vai và nở một nụ cười rồi bỏ đi.

Như vậy có nghĩa là gì? Cốt lõi của người tu học theo Phật là phải biết buông bỏ muôn duyên, nhưng không phải là buông bỏ không còn ăn uống hoặc không tiêu dùng. Điếu ấy có nghĩa là mọi sinh hoạt của đời sống vẫn giữ bình thường, nhưng phải khéo buông ở những tâm niệm nắm chặt vào sự vật và con người cũng như những dính mắc, cột gút ở trong lòng của mình. Phải tháo gở được những thứ ấy thì mới được an ổn nhẹ khỏe và đó chính là buông bỏ đúng nghĩa nhất, chớ không phải là quăng bỏ những nhu cầu vật chất cần thiết thường dùng ở bên ngoài. Một khi đã mở rồi, thì nhớ đừng có cột thắt trở lại.

Hơn nữa, muốn buông bỏ những thứ ở bên trong tâm không phải là một việc dễ làm. Cần phảitrí huệ và sự quyết tâm. Thường quán xét cho thấu tột lẽ thật của thân này và những của cải xung quanh đều là giả dối không có thật, luôn ở trong trạng thái biến đổi vô thường. Trước tiên, nên nhiếp niệm vào danh hiệu Phật theo hơi thở để làm cho tâm thanh tịnh, thì dần dần tâm sẽ trở nên nhẹ nhàng và trí huệ sẽ phát sinh. Khi trí huệ đã sáng tỏ, thì sẽ nhìn thấy lẽ thật càng rõ ràng và sự mở gút, buông bỏ càng nhẹ hơn. Cái gút thắt ấy không phải ở nơi con mắt, cũng chẳng phải ở nơi sự vật bị thấy mà chính ở ngay nơi tâm này. Cần phải suy xét sự thật ở ngay nơi tấm thân này nhiều hơn để thấy chính cái mình yêu quý nhất và đang mang vác lần lần tàn hoại trong từng phút từng giây, dù cho có tưới tẩm, bồi bổ cho nó thật nhiều, cũng chẳng thể giữ nó trẻ đẹp mãi. Càng quán xét sự thật thân này từng ngày từng giờ, thì càng dễ buông bỏ được những gút thắt bên trong tâm  chừng ấy. Sự buông bỏ ở ngay trong tâm này, không phải là buông bỏ hết mọi công việc ở bên ngoài và sinh ra chán đời bi quan.

Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào. ‘Viên dung’ chính là sử dụng hết tất cả pháp mà không bị vướng kẹt, chẳng phải là tự ‘đóng khung’ mình và nghiêng lệch về một bên. Nếu có kiểm tra thấy có sự nghiêng lệch trong cách nghĩ hay làm thì phải điều chỉnh ngay để không bị cản trở sự tiến bộ trong tu hành. Phải khéo uyển chuyển mà dụng công tu tập. Có lúc thì tu theo cách buông bỏ muôn duyên, nhất tâm niệm Phật theo hơi thở“Hít vô A Di; Thở ra Đà Phật”, nhưng cũng có lúc thì phải tu trong mọi hoàn cảnh. Lúc nào làm công việc thì sáng suốt trí huệ, để trọn tâm vào công việc, lúc nào không có việc thì quay về danh hiệu Phật, như vậy là chúng ta đã khéo giữ tâm của mình không cho dính mắc với ngũ dục lục trần rồi và đó gọi là chánh niệm tỉnh giác. Tùy duyên linh động trong mọi hoàn cảnh, mọi lúc mọi nơi, không có ngăn ngại. Tránh việc quá chuyên tâm vào danh hiệu Phật rồi lơ là trong giao tiếp hay công việc. Thực hành như thế cũng là một căn bệnh, cần phải tránh. Đạo Phậtđạo trí tuệ và căn bản của việc tu là lấy trí tuệ làm sự nghiệp, “Duy tuệ thị nghiệp”. Người tu phải ứng dụng khéo léo trong công phu tu tậpthích hợp với nhu cầu công việc mới đúng ý nghĩa. Lúc nào cần phải suy nghĩ cho công việc thì đem trọn tâm ý mà tính toán. Khi xong rồi thì liền buông xuống hết để quay trở về an trú trong câu danh hiệu A-Di-Đà Phật sáng ngời trong tâm.

Thích Minh Thành

Ý kiến bạn đọc
30 Tháng Mười Hai 201503:12
Khách
a di đà phật
a di đà phật
a di đà phật
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1201)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 929)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1249)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 713)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 685)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 759)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 769)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 751)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 747)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 899)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 779)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 939)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 939)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 868)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 874)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 813)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 957)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 891)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 834)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 921)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 843)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 806)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 900)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 833)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1092)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 864)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 949)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1095)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1568)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1107)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1179)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1055)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 918)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 863)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 907)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 754)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1434)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1311)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1272)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1214)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1329)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1276)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1416)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1293)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1160)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1205)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1262)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1247)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1361)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant