Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Bổn Phận Của Người Đệ Tử Phật

31 Tháng Mười Hai 201515:39(Xem: 10061)
Bổn Phận Của Người Đệ Tử Phật

BỔN PHẬN CỦA NGƯỜI ĐỆ TỬ PHẬT

Thánh Tri

Bổn Phận Của Người Đệ Tử Phật

Từ khi thái tử Tất Đạt Đa giác ngộ thành Phật dưới gốc cây Bồ Đề, lăn chuyển bánh xe chánh pháp, chư tổ sư hoằng dương truyền xuống từng đời trải bao thế kỷ, vượt bao thế hệ, làm lợi ích cho vô số chúng sanh, xóa mây mù tà kiến, hiển bày trí tuệ sáng ngời, cho đến ngày nay đạo Phật vẫn còn sáng chói như mặt trời giữa trưa. Thâm ân của Phật, Tổ và bao nhiêu người tăng lẫn tục xưa nay đã chịu bao khó nhọc, đổ bao xương máu để duy trì mạng mạch của Phật Pháp, thật cao cả vĩ đại như núi tuyết, khó mong đền đáp. Người xuất gia thì chăm lo việc học đạo, tham thiền (tu đạo), và truyền bá chánh pháp. Người tại gia thì chuyên lo việc thân cận học hỏi, phụng sự cúng dường, giúp đỡ các vị xuất gia hoằng Phật Pháp, và làm tròn Tam Quy Ngũ Giới, mang lại lợi ích cho mình và người, gieo trồng căn lành và ruộng phước cho đời hiện tạivị lai. Ai cũng hiểu rõ và làm đúng bổn phận mình, thật quý thay! Song, ở thế kỷ 21, pháp thâm sâu vi diệu của đức Phật vẫn còn đó, mà có mấy người lãnh hội được và tu cho đúng!? Do vậy đó mới là chỗ hở yếu làm cho ngoại đạo có thể xâm nhập, lay chuyển, và cải đạo. Buồn thay cho kiếp vận của Phật Giáo! Tiếc thay cho những người không đủ nhân duyên!

 

Song, có buồn có tiếc cũng không làm gì được bởi mỗi người nhân duyên nghiệp quả khác nhau. Đến với Phật Pháp cũng vì chữ duyên, rời Phật pháp cũng là một chữ duyên. Do vậy Kinh Lăng Nghiêm nói “Các pháp từ xưa đến nay, đều theo nhân duyên hư vọng hòa hợp mà sinh, do nhân duyên hư vọng biệt ly mà diệt.” Nên một trong ba việc mà đức Phật làm không được (tam bất năng) là “độ chúng sanh không duyên”. Đó thì càng chứng tỏ lời Phật dạy từ hơn hai ngàn năm trước là đúng.

 

Chỉ trách lấy mình lơ là không tinh tấn tu hành để Minh Tâm Kiến Tánh như Phật và chư Tổ thuở xưa. Đã còn là người trong đường mê sanh tử thì làm sao mà đủ sức trí tuệđức hạnh để khai mở đạo nhãn cho người khác được. Thế thì lực bất tùng tâm, muốn đem ánh sáng trí tuệ chiếu tan màng vô minh đen tối của chúng sanh, mà chính mình chưa sáng đạo thì không thể làm được vậy. Như Kinh Duy Ma Cật nói: “Chỗ sanh chẳng bị trói buộc mới có thể thuyết pháp mở trói cho chúng sanh. Như lời Phật thuyết: Nếu tự mình bị trói mà mở trói được cho người thì chẳng có chỗ đúng. Nếu tự mình chẳng bị trói, thì mới có thể mở trói cho người. Vì thế Bồ Tát chẳng nên có sự trói buộc.” Do vậy mà chính mình phải nỗ lực tu đạo để thấy đạo, một khi đã thông suốt thì mới có thể tùy duyêntùy cơgiáo hóa khắp chúng sanh. Đó là bổn phận và trách nhiệm chung của những người Phật Tửxuất gia hay tại gia.

 

Muốn cùng nhau lăn chuyển bánh xe chánh pháp của Phật, người đệ tử Phật phải có Tu Đức, nghĩa là mỗi người Phật Tử bất luận tại gia hay xuất gia đều phải có sự thực hànháp dụng Phật Pháp vào đời sống hằng ngày, hơn là tin và nói suông. Xuất gia thì nỗ lực học đạo tham thiền, tầm cầu minh sư khai mở đạo nhãn, nhiếp tâm nơi chỗ một niệm chưa sanh như mèo rình chuột, quyết làm tròn chí nguyện xuất gia ban đầu, tức thượng cầu giác ngộ, dưới hóa độ chúng sanh (Thượng Cầu Hạ Hóa), lấy giác ngộ giải thoát làm mục tiêusự nghiệp duy nhứt của đời mình (Duy Tuệ Thị Nghiệp). Tại gia thì chăm lo việc làm tròn bổn phận cho gia đình, xã hội, và bổn phận của người Phật Tử tức là một đời Quy Y Phật, Pháp, Tăng Tam Bảo, quyết chẳng theo thầy tà bạn ác, bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch, thân cận chư tăng để học hỏi và trợ giúp các ngài tu đạo, hoằng pháp, lợi sinh. Mỗi bên ai nấy đều tròn bổn phận tu đức, hổ trợ lẫn nhau cùng nhau lang tỏa giới đức, thì mùi hương của đức hạnh tự tỏa khắp muôn phương, những ngọn đèn trí tuệ tự sẽ thắp sáng khắp những nẽo đường đen tối, khiến chúng sanh có chỗ nương về, và rồi chính họ cũng tự thắp sáng ngọn đèn trí tuệ của chính họ, được an vui giải thoát thật sự.

 

Huyền diệu thay! Chỉ cần ai nấy giữ tròn bổn phận của chính mình và thực hành Pháp Bảo (tức tu Giới-Định-Tuệ) thì tự nhiên góp phần lăng chuyển bánh xe chánh pháp làm lợi ích không những cho chính mình mà còn muôn loài chúng sanh nữa! Chứ đâu cần phải làm những điều gì kỳ hoặc khác!

 

Khi đã có tu đức thì ai cũng trở nên dễ thương, hiền hòa, từ tốn, và kính trọng lẫn nhau. Do vậy một tăng đoàn sẽ có hòa hợp, và hàng bạch gia cũng hòa hợp. Một khi có hòa hợp chúng giữa tăng chúng, giữa hàng tại gia, và giữa tăng lẫn tục thì mới có sự đoàn kết, nên không còn tình trạng “nhất tăng nhất tự” nữa; ngược lại sẽ là “thiên tăng nhất tự” hay một Đại Tùng Lâm Thạch Trụ, như đạo tràng của chư Tổ thuở trước đều dung chứa cả ngàn tăng chúng theo tu học, đào tạo ra không biết bao nhiêu là người giác ngộ lỗi lạc, ai cũng là Phật của một góc trời, làm cho Phật Pháp vững mạnh và vang lừng khắp nơi, cũng như vô số chúng sanh được nương nhờ ơn pháp nhũ. Có sự hòa hợp và đoàn kết nên làm gì cũng thành công, đặc biệt là việc hoằng dương và duy trì huyết mạch của Phật Pháp. Thiếu hòa hợp và đoàn kết thì sẽ thất bại và khiếm khuyết về mọi mặt. Do vậy người xưa nói “hổ ly sơn hổ bại, tăng ly chúng tăng tàn.”

 

Phật ra đời khó khặp như hoa Ưu Đàm quý hiếm, Pháp của Phật lại càng khó được nghe. Nay được thân người đã là việc hi hữu, lại được nghe Phật Pháp thì quả thật là người có đại phước đức, nhân lành nhiều đời đã từng gieo trồng rất sâu, nay lại hội đủ nhân duyên mà được quả nghiệp làm người lại được nghe Phật Pháp thì thật khôngtốt đẹp hơn! Vậy thì phải nên trân trọng cái thân người và quý kính Phật Pháp, đừng bỏ lỡ cơ hội vạn đời khó khặp nầy!

 

Trân trọng thân người là biết cách sống đúng với năm nhân tính của một con người; một là biết tôn trọng mạng sống của mình và người; hai là tạo ra nguồn sống chân chính để nuôi thân bằng đôi bàn tay, khối óc và con tim thương người; ba là tạo ra hạnh phúc cùng nhau bằng lý trítình thương đem lại những đều tốt đẹp cho đôi bên (người tại gia); bốn là tập nói những lời dễ thương tức là biết dùng lời nói nhẹ nhàng, êm ái, thân thương, đoàn kết và xây dựng; và năm là tập giữ gìn sự định tĩnh và trong sáng của tâm hồn bằng cách không đam mê những thứ có tính cách kích thích làm đầu óc mê mờ như rượu bia, thuốc lá, cờ bạc ma túy, xì ke và v.v… Đó chính là năm nhân tính căn bản của một con người lương thiệnđạo đức.  

 

Một khi đã là người lương thiệnđạo đức rồi, thì tiếng thêm một bước nữa là biết quý kính Phật Pháp. Quý kính Phật Pháp thì dành thì giờ rỗi rãnh tìm hiểu Phật Pháp bằng cách đọc kinh sách của chư Tổ đi trước và tầm cầu thiện tri thức trong hiện tại với tâm nhiệt quyết và chí thành, quyết nắm cho được đầu mối vào cửa đạo mới thôi, ngày nào chưa làm được thì ăn ngủ không yên. Khi hiểu được lời dạy của Phật, Tổ và thiện tri thức rồi thì phải thực hành, chứ đừng có học một bụng cho nhiều tri giải rồi đi khắp đó đây bàn luận hơn thua cho qua ngày tháng, rốt cuộc uổng công vô ích, bỏ đi cả một đời học Phật và hành đạo. Khi già yếu chết đi vẫn là người chưa rõ đầu mối sanh tử, nên phải tiếp tục theo nghiệp mà thọ sanh đời khác, không biết có còn được thân người và gặp được Phật pháp nữa không. 

 

Có học và hành Phật Pháp rồi thì mới mang lại những điều lợi ích chân thật cho chính mình, gia đình, đất nước xã hội, và cả thế giới này. Và khi được lợi lạc an vui bằng cách sống đúng theo lời dạy của Phật, Tổ và các vị thiện tri thức thì tự nhiên mình sẽ có một niềm tin vững mạnh chân chính đối với Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng. Mình nhờ ân ngôi Tam Bảo mà được biết cách sống tốt đẹp và sống một đời sống bình an lợi lạc. Nhờ theo lời dạy của Tam Bảo mà mình bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch nên sống chết vẫn bình an, dù phải chết theo luật Vô Thường nhưng biết rằng trọn cả một đời mình bỏ ác làm lành giữ tâm trong sạch chắc chắn sẽ tái sanh về cõi lành nên được tâm hoan hỉ tràng đầy pháp lạc mà ra đi. Nếu người Phật tửtại gia hay xuất gia làm được những điều như thế ắt tâm sẽ vững chãi đối với Phật, Pháp, Tăng nên sẽ không bị tà thuyếtngoại đạo lay chuyển đến nổi phải cải đạo.

 

Phật là giác mà không mê. Pháp là chánh mà không tà. Tăng là tịnh mà không cấu. Quy Y Tam Bảo chân chính thì trở về nương tựa với Giác, Chánh, Tịnh nơi tự Tâm mình. Một khi đã trở về với Tâm Giác Chánh Tịnh thì được giải thoát khỏi tất cả gông cùm của vọng thức phiền não, đó gọi là ra khỏi nhà Phiền Não (Xuất Phiền Não Gia), và giải thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử trong ba cõi được vô sanh niết bàn, đó gọi là ra khỏi nhà Tam Giới (Xuất Tam Giới Gia). Dẫu hiện tại chưa thể làm được đều ấy, nhưng ít ra nếu mình thật tâm Quy Y Tam Bảo thì mình cũng bớt cái ngu si mê muội, bớt cái tà kiến sai trái, gạn lọc bớt những cấu bẩn của thân tâm. Có như vậy cũng có thể mang lại đời sống tốt đẹpan ổn cho chính mình, gia đình mình, đất nước và thế giới. Quy y Tam Bảo được tốt đẹp như thế sao còn tìm kiếm và nghe theo những thứ tà thuyết si mê sai lầm, trái nhân quả của ngoại đạo được? Nếu sống một cách si mê lầm lạc, trái nhân quả thì chỉ mang lại đời sống khổ đau cho chính mình và người thêm thôi! Không được lợi ích gì cả! Phải suy xét cho kỹ càng về điều này!

 

Người thời nay học sai, hiểu sai và thực hành sai giáo pháp của Phật, cũng như học nhiều mà không thực hành chỉ nói suông nên không đủ đạo lực để cứu lấy chính mình và phá trừ ngoại đạo tà kiến, nên mới khiến cho quần chúng, Phật Tử sanh nghi ngờ nơi Tam Bảo, mới dễ bị ngoại đạo thuyết phục bằng nhiều cách như tiền tài danh lợi, chạy theo tà kiến si mê lầm lạc trái nhân trái quả của họ. Thật đáng buồn thay! Đáng tiếc thay!

 

Do vậy bổn phận của người đệ tử Phật là phải học cho kỹ về lời dạy của đức Phật, chư Tổ giác ngộ đi trước, và thiện tri thức cùng minh sư trong hiện tại, và y như pháp mà thực hành. Đệ tử tại gia hay xuất gia ai ai cũng làm tròn bổn phận của mình, hỗ trợ nhau, làm thiện tri thức của nhau trên con đường thật tu thật ngộ của Phật. Có như vậy thì đức hạnh của mỗi người tự lan tỏa và chang hòa khắp muôn phương, chúng sanh đều được nhờ nương lợi lạc, vững tâm, chánh tínthành kính đối với Tam Bảo, làm đẹp cho đời cho đạo trong hiện tại và mãi tận đời vị lai. Mong thay! Rất mong lắm thay!

 

Đạo vốn không lời

Cũng chẳng phải không lời

Đạo không thể chỉ

Cũng chẳng phải không thể chỉ

Cần phải tự khế hội

Bằng con đường Đạo Học

Chẳng phải Triết Học suông

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1702)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2016)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1715)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1715)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1885)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1888)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1553)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1725)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2061)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1808)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2366)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1708)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1708)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1670)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2113)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1937)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2080)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1621)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2230)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1587)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1867)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1751)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1815)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1652)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2387)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2100)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2054)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1857)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2208)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1787)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1905)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2134)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1671)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1927)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1922)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2138)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1908)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1759)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1745)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1741)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1856)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2151)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1703)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1676)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2229)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1949)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1767)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2336)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1948)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2056)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant