Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nguyên Nhân Của Khổ Đau Luân Hồi Sinh Tử Là Gì?

03 Tháng Giêng 201618:22(Xem: 9916)
Nguyên Nhân Của Khổ Đau Luân Hồi Sinh Tử Là Gì?
Nguyên Nhân Của Khổ Đau Luân Hồi Sinh Tử Là Gì?


Nguyên nhân của khổ đau, luân hồi sinh tử là gì? Là sự chấp ngã bám víu vào sắc thân năm bảy chục ký lô này là ta, là của ta, do đó ta muốn chiếm hữu, cho nên từ đó ái dục bắt đầu phát sinh. Khi ta luyến ái, chấp trước, bám víu vào dục vọng, kể từ đó hạnh phúc hay đau khổ bắt đầu có mặt.  

    (334)

Sống đời say đắm buông lung

Thì lòng ái dục vô cùng tăng nhanh

Giống như giữa chốn rừng xanh

Dây leo, cỏ dại mặc tình tràn lan,

Đời người tiếp nối miên man

Khác gì khỉ, vượn đang tham quả rừng

Chuyền cây liên tục chẳng ngừng.

(335)

Nếu mà ở cõi trần gian

Bị điều ái dục buộc ràng vây quanh

Thời bao sầu khổ tăng nhanh

Như là cỏ dại thỏa tình hứng mưa.

(336)

Đời này nếu bản thân ta

Khi điều ái dục vượt qua chẳng màng

Thời bao sầu khổ lìa tan

Như mưa trơn tuột khỏi hàng lá sen.

(337)

Điều Như Lai dạy các ngươi:

"Lành thay cho kẻ họp nơi chốn này

Nhổ cho sạch gốc rễ ngay

Diệt trừ ái dục thẳng tay từ nguồn

Như là nhổ rễ cỏ hoang

Chớ nên để lũ Ma quân dục tình

Quẩn quanh phá hoại tâm mình

Như cơn nước lũ tung hoành bụi lau".

   Khi tâm ý ta bám víu vào ái dục, thì cây ái dục sẽ đâm chồi, trổ nhánh rất mau. Tâm ý duyên theo đối tượng ái dục sẽ làm cho lòng ta rạo rực bừng cháy trong tim, khi ấy ta cảm thấy luyến tiếc, nhớ nhung, xao xuyến, bồn chồn. Người hay dính mắc vào ái dục giống như loài vượn khỉ, chuyền từ cành cây này, sang cành cây khác, để tìm quả trái mà ăn. 
 

    Ái dục buộc ta phải gánh chịu lấy nhiều khổ đau. Ái dục làm cho ta bị si mê, say đắm, dính mắc vào cuộc sống phàm tìnhthế gian này. Những lo lắngsợ hãi do ái dục làm ta mê muội, tham đắm tăng trưởng theo ngày tháng, nó mọc kín, dày đặc như là các loài cỏ dại.

    Nếu ai ở đời này bị ái ân làm mê hoặc, thì sớm muộn gì cũng sẽ dính mắc vào khoái lạc tính dục. Nó sẽ làm cho ta lo lắng ngày càng nhiều hơn, giống như dòng nước rỉ chảy từng giọt nhỏ, nhưng rỉ mãi cũng đầy hồ. Vì thế ta phải biết cách chuyển hóa luyến ái, ham muốn dục vọng, để nó không làm cho ta sầu khổ, như nước không bao giờ thấm vào được lá sen.

    Người tu đạo muốn tâm ý được an ổn, nhẹ nhàng, thì phải quyết tâm dứt bỏ, xa lìa ái ân. Hết ân, hết ái thì không còn bị đọa lạc trong luân hồi sinh tử, không còn bị ái nhiễm mọi thứ dục vọng, thì ta sẽ thật sự bình yên, hạnh phúc.

   Biết được sự tác hại của ái dục rất ghê gớm, nó làm cuộc đời ta có nhiều thứ phải lo lắng, sợ hãi và đau buồn, khổ sở. Nhưng đau buồn và khổ sở hơn hết là cái buồn rầu lo lắng do tham muốn ái dục đem lại. Ái nặng tình sâu, ân nghĩa không xa lìa đến khi gần chết; chung quanh người thân thuộc tiếc nhớ khóc thương, làm cho ta thêm lo lắng, sầu khổ, khó bề ra đi. Do đó, ta phải biết cách chuyển hóa, buông bỏ được luyến ái ham muốn dục vọng, thì ta mới yên chí vững lòng duỗi thẳng hai chân mà ngủ.

    Ngay trong các bài kệ này, chúng ta đã thấy đây không phải là các bài kệ dành riêng cho người xuất gia. Người tại gia cũng có thể áp dụng tu tập được, vì người tại gia sống trong một hoàn cảnh có rất nhiều cơ hội bị quyến rũ dính mắc, đam mê vào ái ân, dục lạc. Sống trong chùa, mỗi thiền sinh đều được thầy tổ thương yêu, nhắc nhở, chỉ dạy, được thực tập hạnh buông xả luyến ái, vì có tăng thân bảo bọc, che chở. Đối với người tại gia, ta sống ngoài đời với bao nhiêu cám dỗ hấp dẫn của tiền tài, sắc đẹp, danh vọng. Hằng ngày, ta đi tới chỗ làm để giao tiếp, gặp gỡ người này, người kia, nên ta dễ dàng bị cuốn hút bởi các lực hấp dẫn đó. Dù ta đã có vợ, có chồng, có con rồi, nhưng ta vẫn bị sự chi phối mãnh liệt của ái dục, như tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, nên ta có lúc cũng muốn bỏ bà xã để chạy theo người yêu, bỏ ông xã để đến với người tình.

    Trong kinh, đức Phật dùng hình ảnh thí dụ rất hay, như con vượn chuyền từ cành này sang cành khác để tìm trái cây. Nó ăn một trái rồi, nhưng còn thèm khát, nên muốn tìm ăn một trái khác nữa. Ở ngoài đời, chuyện ngoại tình xảy ra rất nhiều. Sự thực tập đối với người tại gia còn khó hơn đối với người xuất gấp bội. Vì vậy, xuất giacon đường dễ dàng nhất để ta từng bước chuyển hóa tâm dính mắc vào ái dục, ta không nên chờ cho đến già hết xí quách rồi mới xuất gia.

    Chính vì để giúp cho người tại gia, Phật mới chế giới không được tà dâm, để người tại gia ý thức được sự khổ đau do sự phá hoại hạnh phúc gia đình của người khác, mà giữ trọn vẹn giới pháp, sống một lòng chung thủy, không làm tổn hại cho ai. Nhưng người tại gia giữ được giới này rất là khó, vì đó là lòng tham muốn của đa số người nam do sự đam mê, ham thích của lạ, nên nó là nguyên nhân của bao điều tội lỗi. Ngày xưa, trong thời đại phong kiến, với quan niệm chồng chúa vợ tôi, nên kiếp chồng chung là một điều rất đau khổ đối với người phụ nữ.

   Từ khi đạo Phật có mặt trong cuộc đời, chuyện nam nữ bình đẳng về mọi phương diện đã lần hồi được thay đổi theo thời gian, nên việc xây dựng hạnh phúc gia đình hoàn toàn được tự do lựa chọn. Nhờ vậy, quan niệm chồng chúa vợ tôi hoặc theo tập cấp cha mẹ đặt đâu con ngồi đó, vì áo làm sao mặc qua khỏi đầu, dần hồi được thay đổi theo thời gian.

    Ngày xưa, đa số người nam không giữ được giới tà dâm, nên kiếp sống chung chồng của người con gái rất ư là khổ sở, từ đó tâm ganh ghét, ghen tuông, ích kỷ, tìm cách mưu hại lẫn nhau, chỉ vì không được thỏa mãn dục tính cho riêng mình, mà phải chịu chia sớt cho nhiều người. Đó là nổi khỗ, niềm đau của người sống kiếp chồng chung, còn tham luyến ái dục nặng nề.  

(338)

Đốn cây mà chẳng chịu đào

Hết luôn gốc rễ bám vào đất sâu

Thì cây lại mọc ra mau,

Đoạn trừ ái dục khác nào đốn cây

Đoạn cho căn gốc sạch ngay

Nếu không khổ não mãi quay trở về.

(339)

Người ham ái dục luôn luôn

Theo ba mươi sáu dòng tuôn bạo tàn

Cuốn vào cảnh dục dễ dàng.

Những người ái dục dâng tràn trong tâm

Bị dòng ái dục cuốn phăng.

(340)

Dòng sông ái dục dâng tràn

Như dây leo dại mọc lan khắp miền,

Thấy dây leo mới nhô lên

Dùng gươm trí tuệ diệt liền cho mau

Diệt trừ tận gốc thật sâu.

(341)

Người đời ái dục thích ham

Nên ưa rong ruổi theo làn sóng xô

Ngụp chìm biển dục vô bờ

Tuy cầu hạnh phúc khó mà thành công

Vẫn còn trong chốn trầm luân

Quẩn quanh sinh tử vẫy vùng thoát đâu.

(342)

Người mà ái dục bao trùm

Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia

Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Não phiền, ái dục chẳng lìa cho mau

Khổ đau càng chịu dài lâu.

(343)

Người mà ái dục bao trùm

Kinh hoàng như thỏ vẫy vùng lưới kia

Sa vào bẫy, sợ kể chi,

Tỳ Kheo ái dục gắng lìa cho mau

Niết Bàn giải thoát xa đâu.

    Là người xuất gia tu theo đạo giác ngộ giải thoát, ta không nên bám víu vào ái dục. Ta phải tìm cách diệt trừ tận nguồn gốc của cây ái dục, để rễ của nó không còn có khả năng đâm chồi lên được. Nếu ta diệt dục như việc cắt cỏ dại, thì sau khi được cắt rồi, cỏ dại lại mọc lên nhanh, và ra nhiều hơn trước nữa.

    Gốc cây ái dục sâu và vững, nó giống như một tập khí vậy. Tuy ta đã đốn ngang thân cây, nhưng lại không chịu đào bứng gốc, vì vậy cành lá tiếp tục nảy sinh ra trở lại. Tâm ái dục nếu chưa dứt trừ, thì cái khổ do ái dục đem tới vẫn còn nguyên như cũ, khi gặp duyên sẽ phát sinh luyến tiếc, nhớ thương, mà làm đau khổ cho ta.    
 

     Dòng suối tâm ý ấy cứ mặc tình trôi chảy, khiến cho những nút thắt ái dục đan kết lại với nhau chằng chịt. Chỉ có tuệ giác chân thực của Thế tôn mới có khả năng phân biệt và thấy rõ được đìều này và giúp cho ta đoạn trừ được căn nguyên của nó, phát xuất từ tâm ý.

     Dòng suối ái dục thấm vào suy nghĩ, nhận thức của ta, phát triển mau chóng, lớn mạnh, quấn vào nhau, để ta khó bề rời xa. Nguồn suối ái dục như giếng sâu không đáy làm cho cái già và cái chết xảy đến nhanh chóng, nên các vị vua thời phong kiến ít có người nào chết già, sống thọ.

     Những cành nhánh của cây ái dục cứ tiếp tục sinh trưởng không dừng nghỉ, cũng bởi vì chúng được nuôi dưỡng bằng các thực phẩm thêm lớn lòng ham muốn ái dục. Khi ta mê mờ bởi những thực phẩm này, chúng nuôi dưỡng thêm sự oán hận, chúng kết thành nhiều tấm lưới để ràng buộc chúng ta lại, làm ta chịu khổ đau từ đời này sang kiếp nọ, không có ngày thôi dứt. Người thiếu sáng suốttrí tuệ thì cứ nôn nóng muốn đi về hướng ấy hoài, mà không biết làm cách nào để thoát ra, vì nó theo ta như hình với bóng.

 (344)                 

Người lìa ái dục, xuất gia

Sống vui ở chốn rừng già, núi sâu

Để rồi một sớm quay đầu

Xuôi dòng ái dục thương đau về nhà,

Kẻ hoàn tục đáng xót xa

Cởi ra rồi lại tự ta trói vào.

(345)

Với người trí tuệ mở mang

Dù cho trói buộc bằng phương tiện gì:

Dây gai, cây, sắt sá chi

Nào đâu vững chắc, chẳng hề bền lâu!

Riêng lòng luyến ái khát khao

Vợ con, châu báu quyện vào chẳng xa,

Trói này sao gỡ cho ra!

(346)

Những người có trí nói rằng:

Dây này trói buộc ngày càng chắc thêm

Dây tuy mềm mại, êm đềm

Nhưng mà sao dễ nhận chìm người ta

Khó mà tháo gỡ cho ra

Thế nên người trí lìa xa dục tình

Cắt dây luyến ái cho nhanh

Tự mình giải thoát, tu hành bản thân.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 98)
Lòng từ bi giống như một hạt giống lành đặt vào lòng đất, từng ngày lớn lên thành sự thấu cảm, yêu thương.
(Xem: 109)
Bài bác có nghĩa là phủ nhận một điều gì đó và dùng lý lẽ để chứng minh điều đó là không đúng, theo sự hiểu biết của cá nhân của mình.
(Xem: 211)
Trong cuộc sống hiện đại, chúng ta gặp phải nhiều áp lực và lo lắng từ công việc, cuộc sống xã hội, về giao tiếp theo truyền thống và trên mạng xã hội.
(Xem: 229)
Là Phật tử, chúng ta thường được nghe giảng “đạo Phật là đạo của từ bi và trí tuệ”, nhưng ý nghĩa thật sự của đạo Phật là gì?
(Xem: 264)
Trong cuộc sống đời thường, mỗi một cá nhân chúng ta thường không để ý đến hiệu quả của lòng thương trong nhiều trường hợp ứng xử hoặc trong nhiều công việc thường ngày.
(Xem: 243)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 263)
Ở đây, này Hiền giả, vị Thánh đệ tử thành tựu lòng tinbất động đối với Đức Phật… đối với Pháp…
(Xem: 345)
húng ta có thân này là do nghiệp. Nghiệp được hiểu đơn giản nhất, đời thường nhất là thói quen.
(Xem: 309)
Trong chùa có một anh câm. Không ai nhớ anh ta đến chùa từ bao giờ, vả lại cũng không mấy người để ý đến anh ta.
(Xem: 307)
Danh và thực trong đời sống xã hội là nói cái tên gọi và thực chất, chức danh và khả năng, danh vị và tài đức.
(Xem: 289)
Theo giáo thuyết nhà Phật, quán tưởng là tập trung tư tưởng để quan sát, phân tích và suy nghiệm một vấn đề, giúp cho thân an và tâm không loạn động, cũng như được chánh niệm.
(Xem: 329)
Theo Phật giáo, hồi hướng được làm với lòng ước nguyện để chuyển đổi những thiện hành trở thành nguyên nhân để giúp một người đạt được toàn giác.
(Xem: 321)
Như người bị trúng tên độc là một trong những ảnh dụ gây ấn tượng mạnh mẽ về những việc cần làm ngay.
(Xem: 262)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 209)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 249)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 265)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 355)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 417)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 431)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 423)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 405)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹplương thiện hơn.
(Xem: 417)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 687)
Chết an lànhmong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 640)
Pháp giớivũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 928)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 511)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 755)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 577)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 566)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 459)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 578)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 545)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 730)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 519)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 900)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 647)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 638)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 1066)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 744)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 635)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 940)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 597)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 722)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 698)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 675)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 698)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 687)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 586)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 766)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant