Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Bài Mới Nhất trang Văn Học
Điền Email để nhận bài mới

Đạo PhậtCon Đường Dấn Thân

17 Tháng Giêng 201614:51(Xem: 8132)
Đạo Phật Và Con Đường Dấn Thân
Đạo PhậtCon Đường Dấn Thân


Lịch sử nhân loại từ ngàn xưa cho đến nay cũng chưa ai xác định rõ ràng, trái đất và tất cả muôn loài muôn vật có mặt tự bao giờ. Chúng ta chỉ biết rằng khi con người dần dần được phát triển, bắt đầu dùng sức mạnh lấn áp và chiếm đoạt các tài nguyên thiên nhiên nhằm phục vụ cho đời sống hiện tại, mạnh hiếp yếu, lớn hiếp nhỏ, hoặc tàn nhẫn hơn nhân danh một đấng tối cao để giết hại nhiều người. Ai theo thì được bảo tồn mạng sống và hưởng vinh hoa phú quý bên đấng tối cao, ai không theo thì bị đoạ địa ngục.

Chính vì vậy mà một số người lợi dụng quyền năng đó, để trục lợi cho riêng mình. Do đó có một người nói rằng tôn giáo là thuốc phiện của nhân loại, thế giới chiến tranh giết hại lẫn nhau cũng đã cho chúng ta thấy rõ ràng như vậy. Biết bao cuộc tàn sát đẩm máu cũng vì nhân danh  đấng tối cao, ngày nay thế giới loài người nhờ nghiên cứu tìm tòi quán chiếu, nên đã biết được không ai có quyền ban phước giáng hoạ mà chính con người tự tạo ra hoạ hay phúc.       

Đạo Phật không phải là tôn giáo như chúng ta thường gọi bây giờ, mà là một con đường sáng để phá tan tối tăm mờ mịt, là một phương pháp giáo dục nhân cách sống đạo đức, từ bitrí tuệ, giúp cho mọi người tự tin chính mình làm chủ bản thân, không lệ thuộc vào một đấng thần linh thượng đế. Có chăng chỉ là thượng đế của chính mình, mình làm lành được hưởng nhiều phước báo, mình làm ác thì phải chịu các quả khổ đau. Từ sự thương yêu luyến ái muốn bảo vệ quyền lợi riêng cho mình để hưởng thụ khoái lạc cảm giác. Vì thương yêu con mình nên cha mẹ phải lo lắng đủ cách, để bảo đảm đời sống hiện tại và tương lai của nó. Nếu sau này con cái bất hiếu, sẽ làm cho cha mẹ thất vọng và buồn khổ vô cùng.

Ai cũng biết, đã làm người khi lớn lên cũng cần có tình yêu thương, rồi dẫn đến lập gia đình và bắt đầu từ đó phải gánh lấy nhiều trách nhiệm nặng nề, nếu khôngphước báo thì sẽ chịu nhiều phiền muộn khổ đau. Như chúng ta đã biết, khi có yêu thương thì có luyến ái muốn bảo vệ cho riêng mình, từ đó phát sinh lòng ham muốn và nó không giới hạn chỉ có tình yêu thương giữa hai người, mà còn tham muốn nhiều thứ khác nữa. Tất cả những thứ yêu thương luyến ái đó, đều phát xuất từ sự ham muốn khoái lạc cho chính mình. Hình như chúng ta chỉ yêu mến người nào đem lại hạnh phúc cho chúng ta và sẽ oán hận người nào đem lại đau khổ cho mình. Và tại sao có người chết chúng ta sẽ buồn khổ bi thương, có người chết chúng ta lại dửng dưng như không có chuyện gì xảy ra. Người nào chúng ta từng thương mến thì mới buồn khổ sầu muộn và ngược lại thì không buồn, không khổ.

Cũng vậy, người không tham quyền lực, thì đâu cần địa vị cao. Người không ham giàu có, thì nghèo đâu phải là nỗi khổ. Người không yêu thương luyến ái quá mức, thì xa nhau có gì phải tiếc nuối nhớ nhung. Người không có tâm ganh ghét hận thù, thì gần nhau có gì phải bực bội phiền toái. Thấy thân này không thật do nhân duyên hoà hợp giả có, nên khi bị mạ nhục hoặc mất mát người thân, không là nỗi khổ niềm đau. Luyến ái chấp thân này là thật nên phát sinh tình ái, rồi từ đó bám víu ràng buộc lẫn nhau như tình yêu nam nữ vợ chồng, cha mẹ với con cái, anh chị em cùng chung huyết thống. Các thứ tình yêu thương ấy cho dù có sâu sắc và đậm đà đến đâu, vẫn không thể bền lâutồn tại mãi được. Sự sống chết xa lìa là lẽ đương nhiên, ai cũng phải già bệnh chết, càng yêu thương nhiều, càng khổ đau nhiều chừng ấy, đó là một sự thật không thể chối cãi được, xin mọi người hãy nên quán chiếu soi sáng để không bị luyến ái tham đắm ràng buộc.

Nhưng làm người không yêu thương làm sao được, con người đâu phải là vật vô tri vô giác, như gỗ đá mà không có tình cảm. Đã có tình cảm thì phải có tình yêu lứa đôi và dẫn đến tình dụcthân thể của mỗi người và thêm phần khởi lên sự ham muốn của ý thức. Con người là một chúng hữu tình, tức là loài có tình cảm, vì có tình cảm nên con người mới luyến ái rồi sinh chấp thủ, từ đó phát sinh tư tưởng chiếm hữu muốn là của mình nên trở thành tình thương vị kỷ. Nhưng đi xa hơn có một thứ tình thương không vị kỷ, nó không giới hạn ở người thân mà vượt lên trên tất cả. Chính tình thương này đã làm cho nhân loại không còn thấy ai là kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm với nhau mà thôi.

Bởi thấy biết sai lầm tưởng thân tâm này là thật, nên si mê chấp ngã thấy mình là ta, là của ta, do đó sinh luyến ái yêu thích bám giữ vì vậy sinh ra tham sân si, thành hung thần phiền não mà không hay không biết. Một thứ tình thương đích thực thường cho ra nhiều hơn mà không cần suy xét phân biệt, như có một kiếp Bồ tát thấy cọp mẹ đang đói khát nhiều ngày chuẩn bị ăn thịt cọp con, động lòng thương xót Bồ tát liền gieo mình xuống chỗ cọp mẹ nằm để cứu mấy chú cọp con.

Bồ tát bố thí thân mạnglòng bi mẫn thương xót chúng sinh, đây gọi là bố thí ba la mật vì không còn thấy mình thí, kẻ thọ thí và vật mình thí. Đó mới chính là tình thương đích thực không còn phân biệt ta người hay chúng sinh. Đối với loài thú dữBồ tát vẫn sẵn sàng mở rộng lòng thương xót, để cho chúng được sống còn nuôi con. Do đó Bồ tát đối với con người nghĩa tình sâu sắc và mở rộng tấm lòng từ bi hỷ xả nhiều hơn nữa.

Tình thương này vượt lên trên tất cả mọi thứ tình trên thế gian, nó cao quý và không thể nghĩ bàn. Chính tình thương này giúp cho nhân loại mở sáng mắt ra, bao nhiêu sai lầm từ nghìn xưa đến nay chỉ vì bảo vệ bản ngã độc tôn, mà con người đành lòng tàn sát giết hại lẫn nhau. Đến năm 1999 đại hội đồng liên hiệp quốc đã sáng suốt công nhận đại lễ Phật đản với tên gọi là Vesak, là lễ hội văn hoá của loài người mang tính quốc tế toàn cầu, để tôn vinh các giá trị văn hoá đạo đức, hiểu biếtyêu thương cùng đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trên tinh thần vô ngã vị tha của đạo Phật. Đạo Phật đã mở ra trang sử mới, vén lên bức màn vô minh phá tan bao si mê tối tăm từ nhận thức sai lầm của con người với tinh thần từ bitrí tuệ, để chuyển hoá các phiền muộn khổ đau do si mê chấp ngã mà ra.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 652)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 770)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 684)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 662)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 727)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 675)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 914)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 709)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 760)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 897)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1382)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 908)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 935)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 865)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 756)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 709)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 719)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 594)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1243)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1126)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1093)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1058)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1168)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1106)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1190)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1120)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 995)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1031)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1106)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1071)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1180)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1078)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1153)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1140)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1069)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1131)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1105)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1680)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1102)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1121)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1050)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1240)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1121)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1032)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 979)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1009)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1024)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1155)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 913)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant