Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đau Khổ Đi Theo Sau Người Làm Ác (song ngữ)

04 Tháng Hai 201615:37(Xem: 9612)
Đau Khổ Đi Theo Sau Người Làm Ác (song ngữ)

ĐAU KHỔ ĐI THEO SAU NGƯỜI LÀM ÁC
Câu Chuyện Về Nhà Sư Cakkhupāla

Kệ 1 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa | Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến  
(Suffering Follows The Evil-Doer - The Story Of The Monk Cakkhupāla, Verse 1 - Treasury Of Truth

Dau kho

Đau Khổ Đi Theo Sau Người Làm Ác - Câu Chuyện Về Nhà Sư Cakkhupāla, Kệ 1 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa 

BÀI KỆ 1:

Ý nghĩ dẫn đầu tất cả mọi điều chúng ta nhận biết,
ý nghĩ là chủ, là cốt yếu, mọi việc đều bắt nguồn từ ý nghĩ.
nếu một người có ý nghĩ xấu
rồi người nầy có lời nói xấu, hoặc người nầy có hành động xấu
thì đau khổ sẽ theo sau người nầy,
giống như bánh-xe-bò lăn theo chân con-bò kéo.

 

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên(Jetavana) ở Xá Vệ(Savatthi), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về nhà sư mù Cakkhupāla.

 

một lần, nhà sư Cakkhupāla đến đảnh lễ Đức Phật tại Tu Viện Kỳ Viên(Jetavana). Trong một đêm nhà sư đi thiền hành tại nơi nầy, nhà sư vô tình đạp phải một số côn trùng. Sáng ngày hôm sau, một số nhà sư đến thăm nhà sư Cakkhupāla, và các nhà sư nầy trông thấy các côn trùng đã bị đạp chết. Họ nghĩ không tốt về nhà sư Cakkhupāla, và họ báo sự việc đến Đức Phật. Đức Phật hỏi họ rằng, họ có nhìn thấy nhà sư Cakkhupāla giết chết côn trùng không. Khi họ trả lời là không, Đức Phật nói rằng, "Giống như các ông không nhìn thấy ông ta giết chết côn trùng, cũng như thế, ông Cakkhupāla vì bị mù nên ông đã không nhìn thấy nên đạp chết các con côn trùng. Bên cạnh đó, ông Cakkhupāla không còn ý muốn sát sanh, bởi vì ông ta đã đạt được quả A La Hán, cho nên ông ta không có tội." Sau đó các nhà sư hỏi Đức Phật là tại sao nhà sư Cakkhupāla bị mù, trong khi ông là một vị A La Hán, Đức Phật liền kể câu chuyện sau đây:

 

Một trong số các kiếp trước của nhà sư, Cakkhupāla là một bác sĩ. Trong một lần ông chữa bệnh ông đã cố tình làm cho một phụ nữ, là bệnh nhân của ông, bị mù. Người đàn bà nầy đã hứa với ông là nếu ông chữa khỏi bệnh đau mắt của bà, thì bà và các con của bà sẽ tình nguyện làm nô lệ cho ông. Sau khi ông bác sĩ chữa mắt cho bà, bà đã nói với ông rằng mắt bà trở nên tệ hại hơn trước, trong khi trên thực tế, mắt của bà đã hoàn toàn được ông chữa lành. Bà đã nói dối ông bác sĩ, bởi vì bà lo sợ rằng bà và con bà sẽ trở thành các người nô lệ của ông. Ông bác sĩ biết rằng bà đang lừa dối ông, và để trả thù bà, ông đã cho bà một loại thuốc bom-mát khác, và loại thuốc xoa mắt nầy đã làm cho bà hoàn toàn bị mù. Vì việc làm ác đức nầy, kết quả là ông bác sĩ đã bị mù rất nhiều lần, trong các kiếp sống kế tiếp của ông.

 

BÀI KỆ 1, CHUYỂN NGỮ TỪ TIẾNG PALI:

 

dhammā manopubbaṅgamā manoseṭṭhā manomayā ce paduṭṭhena manasā bhāsati vā karoti vā tato dukkhaṃ naṃ anveti vahato padaṃ cakkaṃ iva.

 

dhammā: kinh nghiệm; manopubbaṅgamā: ý nghĩ đi trước; manoseṭṭhā: ý nghĩ là chủ, là cốt yếu; ce: do đó, nếu, paduṭṭhena: (có ý) xấu xa, đồi bại; manasa: ý nghĩ; bhāsati: (người) nói; karoti vā: hoặc là hành động; tato: vì lý-do đó, dukkham: đau khổ; nam: người đó; anveti: đi theo sau; vahato padam: bước chân bò nặng nề vì phải kéo xe; cakkaṃ iva: tương tự như bánh-xe bò.

 

Tất cả những gì chúng ta hiểu biết, kinh nghiệm bắt đầu bằng ý nghĩ. Lời nói và hành động của chúng ta bắt nguồn từ ý nghĩ. Nếu chúng ta nói hoặc hành động với ý nghĩ độc-ác, chắc chắc chúng ta sẽ gặp hoàn cảnh không tốt, và kết quả là chúng ta phải gánh chịu sự đau khổ. Nếu chúng taý nghĩ xấu, thì cho dù chúng ta đi đâu, chúng ta cũng sẽ gặp hoàn cảnh xấu. Nếu chúng ta tiếp tụcý nghĩ xấu, đau khổ sẽ đi theo chúng ta. Điều nầy cũng giống như là bánh-xe bò đi theo chân con bò kéo xe. Quả đúng như thế, bánh-xe bò, cùng với cái-xe bò chứa hàng nặng nề, sẽ cùng đi theo con bò kéo xe. Con bò đã bị ràng buộc với cái xe-bò chứa hàng nặng nề, nên nó không thể tự do chạy nhảy được.

 

Bài kệ 1 trong Kinh Pháp Cú nầy, anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao đã chuyển dịch thành thơ như sau:

(1) Việc làm của bản thân ta. Do tâm, do ý tạo ra, dẫn đầu. Nói năng, hành động trước sau. Ý mà ô nhiễm: khổ đau theo kề. Tựa như là cái bánh xe. Theo chân con vật kéo lê trên đường.

 

BÌNH LUẬN:

 

Bài kệ đầu tiên trong Kinh Pháp Cú cho chúng ta thấy một khái niệm quan trọng trong Đạo Phật. Trong khi điều quan trọng trong giáo lý của nhiều tôn giáo khác, cho rằng thế giới được một vị thần linh siêu việt gọi là "Thượng Đế" tạo ra, Đạo Phật dạy rằng tất cả những gì chúng ta kinh nghiệm, hiểu biết (về thế giới, cũng như về cá nhân chúng ta) được tạo ra bởi ý nghĩ, hoặc là bởi quá trình nhận thức, thí dụ như sự nhận biết qua giác quan, và quan niệm. Điều nầy cũng chứng minh rằng, một số tác giả đã nhầm lẫn khi viết rằng Đức Phật đã im lặng khi có người hỏi ngài về chỗ bắt đầu của thế giới. Bài Kinh Rohitassa trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật có nói rõ ràng về thế giới, về chỗ bắt đầu của thế giới, và chỗ tận cùng của thế giới, và con đường đi đến chỗ tận cùng của thế giới. Tất cả nằm ở trong tấm thân, có chiều cao 1.8 mét nầy (1 fathom = 1.8 mét), qua sự nhận biếtquan niệm của chính chúng ta.

 

Từ ngữ mano thường được dịch là 'tâm'. Tuy nhiên, Đức Phật có một quan điểm hiện-tượng-luận (lý thuyết mà nói rằng mọi kiến thức bắt nguồn từ hiện tượng) nói đến sự tranh cãi về tâm-và-thân đã làm rối trí nhiều triết gia, từ trước đến nay. Đức Phật đã từ bỏ ý tưởng nhị-nguyên - 'tâm' và 'thân'. Bài Kinh Sabba trong Kinh Tương Ưng Bộ, Đức Phật giải thích rằng tất cả mọi điều chúng ta nói đến là 'kinh nghiệm qua giác quan', bao gồm ý nghĩ, hoặc là quan niệm như là giác quan thứ sáu. Từ ngữ nāma và rūpa, thường được dịch là "tâm" và "thân thể" không phải là hai 'thực thể' riêng biệt, mà chúng cùng tồn tại trong mối quan hệ với nhau. Hai từ ngữ nầy là hai cách nhìn vào một 'sinh hoạt' duy nhất gọi là 'kinh nghiệm'. Nāma (đặt tên) là 'kinh nghiệm' được nhìn một cách chủ quan như là "một quá trình tinh thần của việc xác nhận một đối tượng'(rūpa kāye adhivācana saṃpassa).

 

Rūpa (hình tướng) là 'kinh nghiệm' được nhìn một cách khách quan như là một 'thực thể(thí dụ như con người)' mà được nhận biết và hình thành qua một quá trình tinh thần của sự nhận dạng (nāma kāye pathigha saṃpassa). Mano nói về 'ý nghĩ' hoặc là quá trình tinh thần của khái niệm, trong đó có sự phối hợp và làm cho có ý nghĩa, qua những nhận biết khác nhau, được đưa-vào qua các giác-quan khác nhau. Tất cả mọi 'kinh nghiệm' quan trọng nầy chính là dhammā(Pháp), được nhìn một cách chủ quan như là 'xác nhận một thực thể(thí dụ như con người)'(nāma) và một cách khách quan như là 'một thực thể(thí dụ như con người) được xác nhận' (rūpa). Dhammā(Pháp) chính là "tất cả mọi kinh nghiệm quan trọng" thường được xem như là tình-huống dễ chịu hoặc là khó chịu (loka dhamma)

Suffering Follows The Evil-Doer - The Story Of The Monk Cakkhupāla, Verse 1 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada

 

VERSE 1:

Mind precedes all knowables, mind’s their chief, mind-made are they.

if with a corrupted mind one should either speak or act dukkha follows caused by that, as does the wheel the ox’s hoof.

 

While residing at the Jetavana Monastery in Sāvatthi, the Buddha spoke this verse, with reference to Cakkhupāla, a blind monk.

 

On one occasion, Monk Cakkhupāla came to pay homage to the Buddha at the Jetavana Monastery. One night, while pacing up and down in meditation, the monk accidentally stepped on some insects. In the morning, some monks visiting the monk found the dead insects. They thought ill of the monk and reported the matter to the Buddha. The Buddha asked them whether they had seen the monk killing the insects. When they answered in the negative, the Buddha said, “Just as you had not seen him killing, so also he had not seen those living insects. Besides, as the monk had already attained arahatship he could have no intention of killing, so he was innocent.” On being asked why Cakkhupāla was blind although he was an arahat, the Buddha told the following story:

 

Cakkhupāla was a physician in one of his past existences. Once, he had deliberately made a woman patient blind. That woman had promised to become his slave, together with her children, if her eyes were completely cured. Fearing that she and her children would have to become slaves, she lied to the physician. She told him that her eyes were getting worse when, in fact, they were perfectly cured. The physician knew she was deceiving him, so in revenge, he gave her another ointment, which made her totally blind. As a result of this evil deed the physician lost his eyesight many times in his later existences.

 

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 1)

 

dhammā manopubbaṅgamā manoseṭṭhā manomayā ce paduṭṭhena manasā bhāsati vā karoti vā tato dukkhaṃ naṃ anveti vahato padaṃ cakkaṃ iva.

 

dhammā: experience; manopubbaṅgamā: thought precedes; manoseṭṭhā: thought is predominant; ce: therefore, if, paduṭṭhena: (with) corrupted; manasā: thought; bhāsati: (one) speaks; karoti vā: or acts; tato: due to it, dukkhaṃ: suffering; naṃ: that person; anveti: follows; vahato padaṃ: draught animal’s hoof; cakkaṃ iva: as the cart wheel.

 

All that we experience begins with thought. Our words and deeds spring from thought. If we speak or act with evil thoughts, unpleasant circumstances and experiences inevitably result. Wherever we go, we create bad circumstances because we carry bad thoughts. We cannot shake off this suffering as long as we are tied to our evil thoughts. This is very much like the wheel of a cart following the hoofs of the ox yoked to the cart. The cart-wheel, along with the heavy load of the cart, keeps following the draught oxen. The animal is bound to this heavy load and cannot leave it.

 

COMMENTARY

 

The first two verses in the Dhammapada reveal an important concept in Buddhism. When most religions hold it as an important part of their dogma that the world was created by a supernatural being called ‘God’, Buddhism teaches that all that we experience (the ‘world’ as well as the ‘self’) is created by thought, or the cognitive process of sense perception and conception. This also proves that writers on Buddhism are mistaken in stating that the Buddha was silent concerning the beginning of the world. In the Rohitassa Sutta of the Aṇguttara Nikāya, the Buddha states clearly that the world, the beginning of the world, the end of the world, and the way leading to the end of the world, are all in this fathom long body itself with its perceptions and conceptions.

 

The word mano is commonly translated as ‘mind’. But the Buddha takes a phenomenalistic standpoint in the mind-matter controversy that had baffled philosophers throughout history. The duality – ‘mind’ and ‘body’ – is rejected by the Buddha. The Buddha explains in the Sabba Sutta of the Saṃyutta Nikāya that all that we can talk about is ‘sense experience’, including thought or conception as the sixth sense. The terms nāma and rūpa, commonly translated as ‘mind’ and ‘body’ are not two ‘entities’ that co-exist in relation to each other. They are only two ways of looking at the single ‘activity’ called ‘experience’. Nāma (naming) is ‘experience’ seen subjectively as ‘the mental process of identifying an object’ (rūpa kāye adhivācana saṃpassa).

 

Rūpa (appearance) is ‘experience’ seen objectively as an ‘entity’ that is perceived and conceived through the mental process of identification (nāma kāye pathigha saṃpassa). Mano refers to ‘thought’ or the mental process of conceptualization, which integrates and makes meaning out of the different percepts brought in through the different senses. This meaningful total ‘experience’ is the dhammā, viewed subjectively as ‘identification of an entity’ (nāma) and objectively as ‘the entity identified’ (rūpa). Dhammā which is this “meaningful totality of experience” is normally seen as pleasant or unpleasant cir
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1078)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1262)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 990)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1325)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 780)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 748)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 800)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 818)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 790)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 930)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 816)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 974)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 983)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 914)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 917)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 843)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1000)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 943)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 977)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 893)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 839)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 944)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 872)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1134)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 900)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 998)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1130)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1600)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1151)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1233)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 960)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 947)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 790)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1349)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1319)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1257)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1362)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1316)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1460)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1340)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1194)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1244)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1310)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1292)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant