Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Đau Khổ Đi Theo Sau Người Làm Ác (song ngữ)

04 Tháng Hai 201615:37(Xem: 9555)
Đau Khổ Đi Theo Sau Người Làm Ác (song ngữ)

ĐAU KHỔ ĐI THEO SAU NGƯỜI LÀM ÁC
Câu Chuyện Về Nhà Sư Cakkhupāla

Kệ 1 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa | Chuyển Ngữ: Nguyễn Văn Tiến  
(Suffering Follows The Evil-Doer - The Story Of The Monk Cakkhupāla, Verse 1 - Treasury Of Truth

Dau kho

Đau Khổ Đi Theo Sau Người Làm Ác - Câu Chuyện Về Nhà Sư Cakkhupāla, Kệ 1 - Kho Báu Sự Thật, Kinh Pháp Cú Minh Họa 

BÀI KỆ 1:

Ý nghĩ dẫn đầu tất cả mọi điều chúng ta nhận biết,
ý nghĩ là chủ, là cốt yếu, mọi việc đều bắt nguồn từ ý nghĩ.
nếu một người có ý nghĩ xấu
rồi người nầy có lời nói xấu, hoặc người nầy có hành động xấu
thì đau khổ sẽ theo sau người nầy,
giống như bánh-xe-bò lăn theo chân con-bò kéo.

 

Trong khi cư trú tại Tu Viện Kỳ Viên(Jetavana) ở Xá Vệ(Savatthi), Đức Phật đã nói bài kệ nầy, về nhà sư mù Cakkhupāla.

 

một lần, nhà sư Cakkhupāla đến đảnh lễ Đức Phật tại Tu Viện Kỳ Viên(Jetavana). Trong một đêm nhà sư đi thiền hành tại nơi nầy, nhà sư vô tình đạp phải một số côn trùng. Sáng ngày hôm sau, một số nhà sư đến thăm nhà sư Cakkhupāla, và các nhà sư nầy trông thấy các côn trùng đã bị đạp chết. Họ nghĩ không tốt về nhà sư Cakkhupāla, và họ báo sự việc đến Đức Phật. Đức Phật hỏi họ rằng, họ có nhìn thấy nhà sư Cakkhupāla giết chết côn trùng không. Khi họ trả lời là không, Đức Phật nói rằng, "Giống như các ông không nhìn thấy ông ta giết chết côn trùng, cũng như thế, ông Cakkhupāla vì bị mù nên ông đã không nhìn thấy nên đạp chết các con côn trùng. Bên cạnh đó, ông Cakkhupāla không còn ý muốn sát sanh, bởi vì ông ta đã đạt được quả A La Hán, cho nên ông ta không có tội." Sau đó các nhà sư hỏi Đức Phật là tại sao nhà sư Cakkhupāla bị mù, trong khi ông là một vị A La Hán, Đức Phật liền kể câu chuyện sau đây:

 

Một trong số các kiếp trước của nhà sư, Cakkhupāla là một bác sĩ. Trong một lần ông chữa bệnh ông đã cố tình làm cho một phụ nữ, là bệnh nhân của ông, bị mù. Người đàn bà nầy đã hứa với ông là nếu ông chữa khỏi bệnh đau mắt của bà, thì bà và các con của bà sẽ tình nguyện làm nô lệ cho ông. Sau khi ông bác sĩ chữa mắt cho bà, bà đã nói với ông rằng mắt bà trở nên tệ hại hơn trước, trong khi trên thực tế, mắt của bà đã hoàn toàn được ông chữa lành. Bà đã nói dối ông bác sĩ, bởi vì bà lo sợ rằng bà và con bà sẽ trở thành các người nô lệ của ông. Ông bác sĩ biết rằng bà đang lừa dối ông, và để trả thù bà, ông đã cho bà một loại thuốc bom-mát khác, và loại thuốc xoa mắt nầy đã làm cho bà hoàn toàn bị mù. Vì việc làm ác đức nầy, kết quả là ông bác sĩ đã bị mù rất nhiều lần, trong các kiếp sống kế tiếp của ông.

 

BÀI KỆ 1, CHUYỂN NGỮ TỪ TIẾNG PALI:

 

dhammā manopubbaṅgamā manoseṭṭhā manomayā ce paduṭṭhena manasā bhāsati vā karoti vā tato dukkhaṃ naṃ anveti vahato padaṃ cakkaṃ iva.

 

dhammā: kinh nghiệm; manopubbaṅgamā: ý nghĩ đi trước; manoseṭṭhā: ý nghĩ là chủ, là cốt yếu; ce: do đó, nếu, paduṭṭhena: (có ý) xấu xa, đồi bại; manasa: ý nghĩ; bhāsati: (người) nói; karoti vā: hoặc là hành động; tato: vì lý-do đó, dukkham: đau khổ; nam: người đó; anveti: đi theo sau; vahato padam: bước chân bò nặng nề vì phải kéo xe; cakkaṃ iva: tương tự như bánh-xe bò.

 

Tất cả những gì chúng ta hiểu biết, kinh nghiệm bắt đầu bằng ý nghĩ. Lời nói và hành động của chúng ta bắt nguồn từ ý nghĩ. Nếu chúng ta nói hoặc hành động với ý nghĩ độc-ác, chắc chắc chúng ta sẽ gặp hoàn cảnh không tốt, và kết quả là chúng ta phải gánh chịu sự đau khổ. Nếu chúng taý nghĩ xấu, thì cho dù chúng ta đi đâu, chúng ta cũng sẽ gặp hoàn cảnh xấu. Nếu chúng ta tiếp tụcý nghĩ xấu, đau khổ sẽ đi theo chúng ta. Điều nầy cũng giống như là bánh-xe bò đi theo chân con bò kéo xe. Quả đúng như thế, bánh-xe bò, cùng với cái-xe bò chứa hàng nặng nề, sẽ cùng đi theo con bò kéo xe. Con bò đã bị ràng buộc với cái xe-bò chứa hàng nặng nề, nên nó không thể tự do chạy nhảy được.

 

Bài kệ 1 trong Kinh Pháp Cú nầy, anh Tâm Minh Ngô Tằng Giao đã chuyển dịch thành thơ như sau:

(1) Việc làm của bản thân ta. Do tâm, do ý tạo ra, dẫn đầu. Nói năng, hành động trước sau. Ý mà ô nhiễm: khổ đau theo kề. Tựa như là cái bánh xe. Theo chân con vật kéo lê trên đường.

 

BÌNH LUẬN:

 

Bài kệ đầu tiên trong Kinh Pháp Cú cho chúng ta thấy một khái niệm quan trọng trong Đạo Phật. Trong khi điều quan trọng trong giáo lý của nhiều tôn giáo khác, cho rằng thế giới được một vị thần linh siêu việt gọi là "Thượng Đế" tạo ra, Đạo Phật dạy rằng tất cả những gì chúng ta kinh nghiệm, hiểu biết (về thế giới, cũng như về cá nhân chúng ta) được tạo ra bởi ý nghĩ, hoặc là bởi quá trình nhận thức, thí dụ như sự nhận biết qua giác quan, và quan niệm. Điều nầy cũng chứng minh rằng, một số tác giả đã nhầm lẫn khi viết rằng Đức Phật đã im lặng khi có người hỏi ngài về chỗ bắt đầu của thế giới. Bài Kinh Rohitassa trong Kinh Tăng Chi Bộ, Đức Phật có nói rõ ràng về thế giới, về chỗ bắt đầu của thế giới, và chỗ tận cùng của thế giới, và con đường đi đến chỗ tận cùng của thế giới. Tất cả nằm ở trong tấm thân, có chiều cao 1.8 mét nầy (1 fathom = 1.8 mét), qua sự nhận biếtquan niệm của chính chúng ta.

 

Từ ngữ mano thường được dịch là 'tâm'. Tuy nhiên, Đức Phật có một quan điểm hiện-tượng-luận (lý thuyết mà nói rằng mọi kiến thức bắt nguồn từ hiện tượng) nói đến sự tranh cãi về tâm-và-thân đã làm rối trí nhiều triết gia, từ trước đến nay. Đức Phật đã từ bỏ ý tưởng nhị-nguyên - 'tâm' và 'thân'. Bài Kinh Sabba trong Kinh Tương Ưng Bộ, Đức Phật giải thích rằng tất cả mọi điều chúng ta nói đến là 'kinh nghiệm qua giác quan', bao gồm ý nghĩ, hoặc là quan niệm như là giác quan thứ sáu. Từ ngữ nāma và rūpa, thường được dịch là "tâm" và "thân thể" không phải là hai 'thực thể' riêng biệt, mà chúng cùng tồn tại trong mối quan hệ với nhau. Hai từ ngữ nầy là hai cách nhìn vào một 'sinh hoạt' duy nhất gọi là 'kinh nghiệm'. Nāma (đặt tên) là 'kinh nghiệm' được nhìn một cách chủ quan như là "một quá trình tinh thần của việc xác nhận một đối tượng'(rūpa kāye adhivācana saṃpassa).

 

Rūpa (hình tướng) là 'kinh nghiệm' được nhìn một cách khách quan như là một 'thực thể(thí dụ như con người)' mà được nhận biết và hình thành qua một quá trình tinh thần của sự nhận dạng (nāma kāye pathigha saṃpassa). Mano nói về 'ý nghĩ' hoặc là quá trình tinh thần của khái niệm, trong đó có sự phối hợp và làm cho có ý nghĩa, qua những nhận biết khác nhau, được đưa-vào qua các giác-quan khác nhau. Tất cả mọi 'kinh nghiệm' quan trọng nầy chính là dhammā(Pháp), được nhìn một cách chủ quan như là 'xác nhận một thực thể(thí dụ như con người)'(nāma) và một cách khách quan như là 'một thực thể(thí dụ như con người) được xác nhận' (rūpa). Dhammā(Pháp) chính là "tất cả mọi kinh nghiệm quan trọng" thường được xem như là tình-huống dễ chịu hoặc là khó chịu (loka dhamma)

Suffering Follows The Evil-Doer - The Story Of The Monk Cakkhupāla, Verse 1 - Treasury Of Truth, Illustrated Dhammapada

 

VERSE 1:

Mind precedes all knowables, mind’s their chief, mind-made are they.

if with a corrupted mind one should either speak or act dukkha follows caused by that, as does the wheel the ox’s hoof.

 

While residing at the Jetavana Monastery in Sāvatthi, the Buddha spoke this verse, with reference to Cakkhupāla, a blind monk.

 

On one occasion, Monk Cakkhupāla came to pay homage to the Buddha at the Jetavana Monastery. One night, while pacing up and down in meditation, the monk accidentally stepped on some insects. In the morning, some monks visiting the monk found the dead insects. They thought ill of the monk and reported the matter to the Buddha. The Buddha asked them whether they had seen the monk killing the insects. When they answered in the negative, the Buddha said, “Just as you had not seen him killing, so also he had not seen those living insects. Besides, as the monk had already attained arahatship he could have no intention of killing, so he was innocent.” On being asked why Cakkhupāla was blind although he was an arahat, the Buddha told the following story:

 

Cakkhupāla was a physician in one of his past existences. Once, he had deliberately made a woman patient blind. That woman had promised to become his slave, together with her children, if her eyes were completely cured. Fearing that she and her children would have to become slaves, she lied to the physician. She told him that her eyes were getting worse when, in fact, they were perfectly cured. The physician knew she was deceiving him, so in revenge, he gave her another ointment, which made her totally blind. As a result of this evil deed the physician lost his eyesight many times in his later existences.

 

EXPLANATORY TRANSLATION (VERSE 1)

 

dhammā manopubbaṅgamā manoseṭṭhā manomayā ce paduṭṭhena manasā bhāsati vā karoti vā tato dukkhaṃ naṃ anveti vahato padaṃ cakkaṃ iva.

 

dhammā: experience; manopubbaṅgamā: thought precedes; manoseṭṭhā: thought is predominant; ce: therefore, if, paduṭṭhena: (with) corrupted; manasā: thought; bhāsati: (one) speaks; karoti vā: or acts; tato: due to it, dukkhaṃ: suffering; naṃ: that person; anveti: follows; vahato padaṃ: draught animal’s hoof; cakkaṃ iva: as the cart wheel.

 

All that we experience begins with thought. Our words and deeds spring from thought. If we speak or act with evil thoughts, unpleasant circumstances and experiences inevitably result. Wherever we go, we create bad circumstances because we carry bad thoughts. We cannot shake off this suffering as long as we are tied to our evil thoughts. This is very much like the wheel of a cart following the hoofs of the ox yoked to the cart. The cart-wheel, along with the heavy load of the cart, keeps following the draught oxen. The animal is bound to this heavy load and cannot leave it.

 

COMMENTARY

 

The first two verses in the Dhammapada reveal an important concept in Buddhism. When most religions hold it as an important part of their dogma that the world was created by a supernatural being called ‘God’, Buddhism teaches that all that we experience (the ‘world’ as well as the ‘self’) is created by thought, or the cognitive process of sense perception and conception. This also proves that writers on Buddhism are mistaken in stating that the Buddha was silent concerning the beginning of the world. In the Rohitassa Sutta of the Aṇguttara Nikāya, the Buddha states clearly that the world, the beginning of the world, the end of the world, and the way leading to the end of the world, are all in this fathom long body itself with its perceptions and conceptions.

 

The word mano is commonly translated as ‘mind’. But the Buddha takes a phenomenalistic standpoint in the mind-matter controversy that had baffled philosophers throughout history. The duality – ‘mind’ and ‘body’ – is rejected by the Buddha. The Buddha explains in the Sabba Sutta of the Saṃyutta Nikāya that all that we can talk about is ‘sense experience’, including thought or conception as the sixth sense. The terms nāma and rūpa, commonly translated as ‘mind’ and ‘body’ are not two ‘entities’ that co-exist in relation to each other. They are only two ways of looking at the single ‘activity’ called ‘experience’. Nāma (naming) is ‘experience’ seen subjectively as ‘the mental process of identifying an object’ (rūpa kāye adhivācana saṃpassa).

 

Rūpa (appearance) is ‘experience’ seen objectively as an ‘entity’ that is perceived and conceived through the mental process of identification (nāma kāye pathigha saṃpassa). Mano refers to ‘thought’ or the mental process of conceptualization, which integrates and makes meaning out of the different percepts brought in through the different senses. This meaningful total ‘experience’ is the dhammā, viewed subjectively as ‘identification of an entity’ (nāma) and objectively as ‘the entity identified’ (rūpa). Dhammā which is this “meaningful totality of experience” is normally seen as pleasant or unpleasant cir
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1330)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1319)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1215)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1280)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1297)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 1939)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1316)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1328)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1207)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1451)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1290)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1187)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1155)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1194)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1208)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1333)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1060)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1051)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1115)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1245)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1276)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1040)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1156)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1099)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1232)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1228)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1356)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1434)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1200)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1188)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1332)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1353)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1279)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1578)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1252)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1263)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1291)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1150)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1180)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1292)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1409)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1473)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1629)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1486)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1406)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1175)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1282)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1252)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1314)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1284)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant