Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cầu An Có Được An Chăng

22 Tháng Hai 201616:39(Xem: 11653)
Cầu An Có Được An Chăng

CẦU AN CÓ ĐƯỢC AN CHĂNG

Minh Kiến – Dhammaghosa

Cầu An Có Được An Chăng

 

Đầu năm mới, xin thành tâm chúc mọi người an vui, sức khoẻ và thuận lợi trong mọi công việc.

Nhân có nhiều Phật tử hỏi về việc “cầu an đầu năm”, lại gần đến ngày Rằm tháng Giêng mà hầu hết các chùa đều tổ chức lễ cầu an đầu năm nên tranh thủ có vài lời cho nóng. Sự thật thì chưa trả lời gì về câu hỏi “cầu an” mà thay vào đó, thầy đã cầu an đến mọi người bằng một sắc màu khác của nó là “chúc Tết” rồi đó!

1. CẦU AN CÓ NGHĨA LÀ GÌ?

Đó là câu hỏi mà có lẽ không phải mình chị hỏi mà còn rất nhiều người chưa hiểu và không biết nguồn gốc từ đâu. Trước hết xin nhắc đến ý nghĩa được mọi người hiểu về cầu an đó là “cầu xin được sự an vui”. Ở một cấp độ hiểu biết, một nhóm người, hay một tông phái tôn giáo nào đó, nghĩa của từ cầu an đúng là được hiểu và sử dụng như vậy thật. Và đó cũng chính là nguyên nhân tạo nên một phong trào, tín ngưỡng, lễ hội…mà có số lượng người làm theo không hề ít.

Chẳng hạn như việc cúng sao giải hạn ở một số nơi mà số lượng người tham gia nối đuôi nhau dâng sớ dài hàng ki-lô-mét; hái lộc trẩy hội ở các đình đền miếu mão, thánh mẫu cô cậu…một cách hối hả, chen lấn, lo sợ kèm theo sự chặt chém hương hoa dịch vụ ngay nơi được coi là cửa thánh. Đến nỗi có người còn phán cho một câu xanh rờn rằng “Thất bại khi một dân tộc phải dựa dẫm thánh thần mà đi[1], hệ quả của các lễ hội không chỉ dừng lại ở sự nhốn nháo mà còn có nguy cơ đẩy dân tộc đến chỗ yếu đuối, tự ti và bạc nhược. Nếu “cầu an” với ý nghĩa và thực trạng như hiện tại thì quả thật không những là đã đi quá xa ý nghĩa gốc của nó mà còn gây ra một tổn hại tâm linh vô cùng to lớn.

2. NGUỒN GỐC VÀ SỰ BIẾN HÌNH CỦA “CẦU AN”.

Ngôn ngữ quả thậtgiới hạn, không những không thể chuyển tải hết nguyên nghĩa chân lý mà còn méo mó khi chuyển dịch giữa các ngôn ngữ. Từ ngàn xưa, con người cũng đã cầu khấn van xin rồi chứ không phải bây giờ mới có. Cũng chỉ xuất phát từ sự lo lắng sợ hãi, người ta lễ bái cầu xin từ các đấng thần linh ban ơn ban phúc hay giúp đỡ độ trì cho mình được thoát khỏi hoang mang sợ sệt. Để việc cầu khấn được chắc chắn, con người đã tăng sự lễ bái lạy lục lên sự đổi chát, hối lộ thần linh từ hương hoa lễ phẩm, bằng cúng tiền vàng mã, bằng nhang đèn nghi ngút, bằng giết mổ sinh vật, mà lạnh gáy hơn là dâng hiến bằng nam nữ đồng trinh hay chính mạng sống của người khác để đổi lấy những tham lam mong muốn vô cùng dung tục. Vâng, đó là những gì mà con người hiểu từ cái chữ “cầu an” một cách méo mó.

2.1. Giai đoạn thứ nhất - Nguyện lực tự thân:

Có lẽ thời đức Phật còn tại thếthời gian mà một phần giới trí thức được chỉnh đốn suy nghĩ, hiểu đúng về “cầu an” sớm nhất. Thời đó, không có “cầu” mà là dùng từ “nguyện”(Panidhāna, Adiṭṭhāna)! Nhưng ngay từ “nguyện” này, khi mang vào dùng trong tiếng Việt, nó cũng sớm bị vặt vẹo thành ra chữ “nguyện cầu”, phải có cầu vào mới ưng, mới thoả lòng.

Nguyện là Chí Nguyện Ba La Mật mà cũng chính là từ gốc của chữ cầu an ngày nay. Đụng đến Kinh điển nữa rồi! Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa (Saddharmapuṇḍarīkasūtra) của Phật giáo Bắc Tông chỉ nói đến Lục Độ hay Sáu Ba La Mật[2]nghiễm nhiên là không có Nguyện Ba La Mật. Về sau, Kinh Thập Địa (Dasabhūmikasūtra) mới liệt kê thêm bốn Ba La Mật[3] nữa để đủ số lượng Mười Ba La Mật[4] như của Phật giáo Nam Tông Nguyên Thuỷ.

Cầu an với nghĩa là “nguyện” này, tức là sự nổ lực, hạ quyết tâm, nguyện trong tâm, thệ nguyện, hứa với chính mình…để thực hiện một mục tiêu gì đó cho đến khi thành tựu. Hoàn toàn không có chút gì dựa dẫm vào sự ban ơn cứu rỗi. Chẳng hạn như đức Bồ Tát của chúng ta đã phát nguyện một cách dũng mãnh trước khi thành Đạo rằng: “Dù cho thịt và máu trong thân ta khô cạn hết, dù sắc thân này chỉ còn da bọc xương đi nữa, nếu ta chưa chứng đắc thành Đức Phật Chánh Đẳng Giác, ta quyết không bao giờ rời khỏi Bồ đoàn này.”

Bất cứ ai, muốn thành tựu điều gì hay vượt qua được khổ đau đều phải có chí hướngnỗ lực tự thân để thực hiện nó. Đức Phật cũng chứng nhận sự nỗ lực này rằng “Viriyena dukkhamacceti – Người thoát ra khỏi khổ đau là nhờ có chí nguyện cố gắng”. Dĩ nhiên đằng sau sự thành tựu cũng phải tuỳ thuộc vào độ sâu dày của phước báu công đức mà người đó đã vun bồi – gọi là Ba La Mật. Đâu phải dễ gì mà “cầu là được” chứ! Huống hồ là những ước mong thô tháo, dung tục!

Nhưng để từ “nguyện” thành “cầu an” thì khoảng giữa này là cả một hành trình chuyển đổi, lồng ghép, di căn và biến tướng đủ thứ. Từ chính mình ban cho mình bằng nguyện lực quyết tâm (giai đoạn một); trở thành người khác hoặc vật khác ban cho mình (giai đoạn hai); rồi thành thần linh ban cho mình (giai đoạn ba).

2.2. Giai đoạn thứ hai – Tha lực:

Giai đoạn thứ hai sau “nguyện” chính là người khác ban cho mình hay dựa vào năng lực của người khác, vật ngoại thân để bổ sung năng lượng cho chính mình. Thể hiện qua nhiều phương pháp khác nhau, rất phong phú và đa dạng như rải tâm từ, tụng kinh an lành hay những cách chúc tụng, bùa chú, ứng dụng phong thuỷ... Ở gian đoạn này thì năng lựclàm cho an lành” còn tuỳ thuộc vào người hay vật ấy có “nội công” thật sự hay không. Mặc dù loại năng lực này có thật nhưng đức Phật không khuyến khích chúng sinh tin tưởng và nương tựa, vì các pháp này cũng chịu sự vô thường biến đổi. Dù bài Kinh câu kệ có oai lực đi nữa nhưng người trì chú đọc tụng cũng phải sinh già, bệnh tật rồi chết đi trong tay của Diêm chúa Vô thường.

Rải tâm từ” là các vị sư, thiền sưthiền định, các bậc thánh nhân, các bậc đạo cao đức trọng hướng tâm nguyện mong sự an lành đến các chúng sanh thì từ trường ấy sẽ tác động đến tâm thức cũng như thân thể tứ đại của mình. Điều này rất dễ cảm nhận được nếu chúng ta thường xuyên tiếp cận các vị thiền sư, nhất là các vị hành thiền tâm từ hoặc các vị chứng đắc thiền rồi nguyện rải tâm từ. Ví như ánh mặt trời chiếu soi ánh sáng để tiếp năng lượng sống cho tất cả muôn loài, cây cỏ mà không thiên vị một ai. Như lời một bài Kinh rải tâm từ rằng:

“Sabbe sattā averā hontu, sukhitā hontu, niddukkhā hontu, abyāpajjhā hontu, ānīghā hontu, dīghā yukā hontu, arogā hontu, sampattīhi samijjhantu sukhī attānam pariharantu, dukkhappattā ca niddukkhā, bhayappattā ca nibbhayā, sokappattā ca nissokā hontu sabbe pi pānino.

Nguyện cho tất cả chúng sanh, đừng có oan trái lẫn nhau, hãy cho được sự yên vui, đừng có khổ, đừng làm lại lẫn nhau, đừng hẹp lượng, hãy cho được sống lâu, đừng có bệnh hoạn, hãy cho được thành tựu đầy đủ, hãy giữ mình cho được sự yên vui. Tất cả chúng sanh đến khổ rồi, xin đừng cho có khổ, đến sự kinh sợ rồi, xin đừng cho có kinh sợ, đến sự thương tiếc rồi xin đừng cho thương tiếc.”

Hay lúc mình ở trong vòng tay yêu thương của cha mẹ, tình yêu thương ấy làm mình cảm thấy an toàn nhất vì đó là tình thương không toan tính, không mảy may đòi hỏi! Tuy nhiên, cũng không ít các cô cậu tuổi mới lớn, ảo tưởng một vòng tay yêu thương của người xa lạ, gởi trái tim và cuộc sống của mình cho người ta, rồi khi thất vọng tràn trề, nước mắt lại vào vòng tay của mình, lúc ngồi ôm gối trong góc nhà. Ở phương diện chế định của thế gian, hạnh phúc gia đình cũng là một cách “làm cho an lành” có giá trị và đáng tôn trọng. Như Kinh Tâm Từ (Karanīyamettasutta, Suttanipāta, Khuddakanikāya) dạy:

“…Mātā yathā niyaṃ puttaṃ                          Hy sinh như từ mẫu
āyusā ekaputtam anurakkhe                         Suốt đời lo che chỡ
Evam pi sabbabhūtesu                                 Đứa con một của mình
mānasam bhāvaye aparimāṇaṃ                    Hãy phát tâm vô lượng
                                                                 Đến tất cả sinh linh…”

 “Tụng Kinh an lành” là sử dụng một số câu kinh lời kệ để tụng đọc, kèm theo rải tâm từ bi đến người nghe. Năng lực của kinh kệ còn phụ thuộc vào nội lực của người tụng đọc nữa. Việc sử dụng kinh kệ tụng đọc để mang lại an lành, khắc chế một số điều xấu ác, đức Phật cũng từng sử dụng và dạy cho người khác thực hành. Điển hình là bài Kinh Tâm Từ (Karanīyamettasutta) được đức Phật chỉ bày cho các vị tỳ kheo tụng niệm để rải tâm từ cho các hạng chư thiên, thọ thần mát mẻ hoan hỷ mà không quấy rầy nữa: 

“…Na ca khuddaṃ samācare kiñci                 Không làm việc ác nhỏ
yena viññū pare upavadeyyuṃ                     Mà bậc trí hiền chê.
Sukhino vā khemino hontu                           Nguyện thái bình an lạc,
sabbe sattā bhavantu sukhitattā…                Nguyện tất cả sinh linh 
                                                                Tràn đầy muôn hạnh phúc...”

Một dịp khác, Ngài truyền dạy cho Tôn giả A Nan Đa tụng Kinh Linh Bảo (Ratanasutta, Suttanipāta, Khuddakanikāya) suốt đêm, nhờ năng lực Tam Bảo làm cho ba điều bất lành là bệnh tật, phi nhân và sự đói khát của dân chúng trong thành Vesāli thoát nạn:

“…Tasmā hi bhūtā nisāmetha sabbe                      Hãy chú tâm suy niệm, Khởi lên long từ mẫn
Mettam karotha mānusiyā pajāya                        Đối với những người nào, Ban ngày và ban đêm
Divā ca ratto ca haranti ye balim                         Thường bố thí cúng dường, Hãy phát tâm ân cần
Tasmā hi ne rakkhatha appamattā                      Hộ trì những người ấy…”


Ở các nước Phật giáo Nam Tông Nguyên Thuỷ, việc Rải tâm từ, tụng Kinh an lành đã trở thành tục lệ khoá lễ được tổ chức tại chùa chiền hoặc tư gia mỗi dịp đầu năm Tết đến, cưới hỏi, sinh nhật, mừng thọ, khai trương, xây nhà dựng cửa, tất niên, thu hoạch…hoặc chỉ đơn giản là muốn thỉnh các sư về nhà trai Tăng làm phước gọi chung là “Tụng kinh hỷ sự” để hoan hỷ với phước báu có được hoặc tuỳ hỷ với người khác; đồng thời, cũng để nhắc nhở sự tỉnh thức trong việc vun bồi phước báu thiện nghiệp tiếp tục. Và khi có chuyện buồn, tang tóc, kỵ giỗ thì gọi là “Tụng kinh ưu sự” để quán niệm, suy niệm về sự thật chân lý trên thân qua những lời dạy mộc mạc thẳng thắng của Phật để xả ly buông bỏ, bớt ưu sầu.

Tụng kinh hỷ sự” là vậy mà tiếng Việt mình gọi là “Tụng kinh cầu an”, chỉ khác biệt ở chỗ chữ “cầu an” mà chúng ta đã chuyển hẳn sang con đường cầu khấn van xin, dựa dẫm thần linh ban ơn giáng phúc thì mới thấy “tam sao thất bổn” nó tai hại đến dường nào! Nhưng biết làm sao được khi nó đã ăn sâu vào phế phủ. Tốt nhất là hãy hiểu ý nghĩa trước đã rồi chuyển tư tưởng dần dần sau.

2.3. Giai đoạn thứ ba – Dựa dẫm thần linh:

Quả đúng như câu ẩn dụ trên, “tam sao thất bổn” là qua ba lần sao chép thì đã mất bản gốc rồi, chứ không phải là “sao ba bản mà được bảy bản” đâu nhé! Đừng có lạm dụng phương tiện quá trớn mà mất luôn cả bản gốc, bản sao; mất luôn cả chì lẫn chài bây giờ.

Không biết con người mình dựa dẫm vào thần linh và các năng lực siêu nhiên từ bao giờ nhưng chắc chắn một điều rằng nó là sự chuyển tiếp từ giai đoạn thứ hai ở trên. Một khi con người bị kích thích bởi những tham vọng và bị chi phối bởi sợ hãi; họ sẽ vội vã vội vàng, mất định tĩnh để kiểm soát chính mình, họ quên đi năng lực vốn có của bản thân, họ không tin vào bản thân mình (giai đoạn một). Rồi họ không tìm gặp các bậc có khả năng giải phẩu tâm lý hoặc không tìm thấy giáo lý chân thật để trấn an tinh thần (giai đoạn hai). Họ bắt đầu hoang mang chạy theo ảo tưởng, bị cuốn vào vòng trào lưu cúng bái van xin; gởi thân thần này, khoán vía thánh kia; dâng sao đền này, giải hạn miếu nọ (giai đoạn ba).

Chưa đủ, họ còn phải nhốn nháo xô bồ, vất va vất vưởn với kết quả bất toại nguyện sau đó. Họ lại phải chạy chọt, hối hộ thần linh từ đền này sang miếu khác, mở đường cho các chính sách ngu dân lợi dụng thâu tóm quần chúng bằng những ngôi chùa quốc doanh qui mô tráng lệ, những đình đền miếu mão nghi ngút hương khói hàng mã, tấu sớ khẩn cầu; hoặc tạo cơ hội cho tư nhân thông đồng, bắt tay chặt chém những niềm tin đang thoi thóp một cách man rợ.

Sự dựa dẫm thần linh không chỉ nói đến các phong tục mê tín mà nó đã biến chứng thành khối u nhứt nhối, thối dần trong từng thớ thịt nghi lễ Phật giáo Đại thừa như cúng sao giải hạn; bói toán, xem ngày; cắt duyên âm, nối duyên dương; trai đàn chẩn tế; hầu đồng, nhập bóng… Mà không chừng, có thể lây nhiễm sang cả Phật giáo Nam Tông Nguyên Thuỷ trong một ngày không xa như bốc xăm giải quẻ; cầu an, cầu siêu; bắt ma trừ tà; bùa chú rải nước thánh…

Có một số hình thức thanh cao khác như thờ cúng Xá lợi, tạc tượng in hình Phật hay các bậc thánh Tăng…nếu không cẩn thận cũng sẽ biến thành nơi dựa dẫm không khác. Ví dụ, Xá lợi Phật và chư Thánh Tăng thường xây cất bảo tháp để tôn thờ cho mọi người cùng chiêm bái. Nếu thỉnh về thờ tại tư gia là đã không hợp, nếu với mong muốn là để tăng thêm năng lực hộ trì cho gia đình thì việc này chính là một sự dựa dẫm tinh tế rồi. Hình ảnh, tượng Phật cũng vậy. Thờ là để tưởng nhớ đến ân đức của ngài, học hỏi và noi gương ngài trong cuộc sống tu tập. Nếu cũng có mong muốn tương tự thờ Xá lợi trong nhà thì cũng không có tên gọi gì khác ngoài từ “dựa dẫm” Phật thánh.           
          

3. KẾT LUẬN

Nội dung của “cầu an” là vậy không có gì sai trái. Nó sai ở chỗ dùng từ và hiểu hời hợt trên mặt chữ. Hãy có chánh niệm hiểu cầu an là “nguyện an lành” cho chính mình và mọi người xung quanh; làm cho sự quyết tâmý chí của mình càng thêm mạnh mẽ. Cầu an là làm cho câu kinh lời kệ trở nên linh thiêng khi áp dụng, phát ra năng lực qua hành động, lời nóisuy nghĩ của chính mình, đó là sự linh nghiệm của giáo Pháp Phật. Cầu an là nguyện cho Phật thánh, thần linh, chư thiên hộ pháp, các sao tinh tú, cầm tinh con giáp, ngày tháng mùa màn, ngũ hành tứ đại…được thuận hoà dung hợp, để chân lý hiển bày, chúng sanh đoàn kết, thương yêu đùm bọc, bớt oan trái khổ đau, giúp nhau tu học…như vậy có phải là thiết thực hơn nhiều không!

Đức Từ phụ của chúng ta phải mất 4 A Tăng Kỳ và 100 ngàn Đại kiếp để chứng đạt đạo quả Phật. Cuối đời, ngài cũng chỉ nhắn nhủ chúng ta rằng: "Này A Nan Đa, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình (attadipā vihāratha), hãy tự mình y tựa chính mình (attāsaranā) chớ y tựa một cái gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một cái gì khác ...”[5] hoặc như câu thơ Pháp cú số 160 là:

“Tự mình là vị cứu tinh
Tự mình nương tựa vào mình tốt thay
Nào ai cứu được mình đây?
Tự mình điều phục hàng ngày cho chuyên.”

cuối cùng, nhân danh một con người đầu đội trời chân đạp đất, thầy van xin các đấng thần linh Phật thánh…đừng nên phù hộ độ trì những người cầu xin ngài nữa. Vì nếu các ngài làm vậy, chúng sanh sẽ cho rằng các ngài “thiên vị” đấy ạ!                        

 

Rằm tháng Giêng sắp đến,
Minh Kiến – Dhammaghosa


[1] Tiến sĩ Nguyễn Minh Hoà, ĐH KHXH&NV TP.HCM, “Thất bại khi một dân tộc phải dựa dẫm thánh thần mà đi”, Báo Pháp Luật, 2015.

[2] Lục Độ hay Sáu Ba La Mật: Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nại, Tinh Tấn, Thiền Định, và Trí Tuệ.

[3] Thêm 4 Ba La Mật nữa là: Phương Tiện, Chí Nguyện, Nỗ Lực, và Trí Lực.

[4] Thập Độ Ba La Mật: Bố Thí, Trì Giới, Xuất Gia, Trí Tuệ, Tinh Tấn, Nhẫn Nại, Chân Thật, Chí Nguyện, Tâm Từ, Tâm Xả.

[5] Trích dẫn: Trường Bộ Kinh III, tr101; Tương Ưng Bộ Kinh V, tr170; Trường A Hàm tập I, 806...

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1401)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1813)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1568)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1343)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1635)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2153)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1898)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1260)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1439)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1430)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1720)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1480)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1343)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1486)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1428)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1754)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1452)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1411)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1429)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1498)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1684)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1575)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1522)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1392)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1492)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1205)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1969)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1386)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1537)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2902)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1539)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1731)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1587)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2032)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1569)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1771)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1973)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2156)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1637)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2603)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1702)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1883)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1845)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1607)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2354)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1788)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1841)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1716)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2087)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
(Xem: 2061)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant