Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Hãy Để Cho Các Pháp Tự Vận Hành!

17 Tháng Ba 201607:06(Xem: 9924)
Hãy Để Cho Các Pháp Tự Vận Hành!

HÃY ĐỂ CHO CÁC PHÁP TỰ VẬN HÀNH!

Tô Đăng Khoa

Hãy Để Cho Các Pháp Tự Vận Hành!

 

Vô Thường! Vô Thường!” Đây là đặc tính vi diệu, khó thấy thứ nhất của sự hiện hữu do Đức Thế Tôn ấn chứng.

Điều này có nghĩa là:  Tất cả Pháp (không có một ngoại lệ) chỉ là phù du trong thoáng chốc! Chúng được sinh ra chỉ để  bị diệt đi. Sự xuất hiện của chúng ví như chiếc cầu vòng xuất hiện trong hư không, mà bản chất chỉ là một hiện tượng quang học, không có thực chất tính.

“Vô Thường” 
Điều này đích thực như vậy.
Quá khứ, hiện tại, vị lai đều như vậy.
Bất cứ nơi nào, hay ở cảnh giới nào cũng đều như vậy.
Phật ra đời hay không ra đời cũng như vậy.
Chúng tanhận ra hay không nhận ra cũng như vậy.
Các Pháp trước sau rốt ráo như vậy.
Hãy đến để mà thấy đúng như thật như vậy:

 “Vô Thường”

Nhưng mà:  Chúng ta thường không chịu thấy đúng như thật như vậy đặc tính vi diệu này của Pháp!

Thói quen bám víu của chúng ta khiến chúng ta thấy các Pháp là Thường.

Đây là một trong 62 tà kiến: “Trong khi các Pháp vốn vô thườngchúng ta thấy là thường”

Vì thấy chúng là Thường, ta đón nhận chúng, hoan hỷ với chúng, hy vọngmong ước chúng ở lại với chúng ta mãi mãi. Khi chúng thay đổi và niềm hy vọng bị tan nát, chúng ta đau khổ buồn rầu.

Cho nên:

Khổ! Khổ!”.  Đây là đặc tính vi diệu khó thấy thứ nhì của sự hiện hữu do Đức Thế Tôn ấn chứng

Để có thể tự giải thoát khỏi thực tế khổ này, chúng ta phải tu tập, rèn luyện cách nhìn mới sao cho phù hợp với nhịp điệu của vận hành của các Pháp trong tự nhiên.

Quy luật đó là:  "Phàm bất cứ cái gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt".

Ví như, trong trọng trường của quả địa cầu thì: “Phàm cái gì được ném lên, cái đó sẽ rơi xuống”; cũng tương tự như thế trong Pháp Giới Duyên Khởi thì:  “Phàm Pháp gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt.

Các pháp tự nó sanh ra, hãy để cho tự đoạn diệt. Đừng bám víu chúng.  Đừng dựng lập khái niệm gì để nhốt hay đóng khung chúng.  Xin hãy từ bi để cho các pháp tự vận hành!

Chính vì chúng ta hay bám víu muốn giữ nó lại thành “cái của Ta, cái thuộc về Ta”, cho nên chúng ta đau khổ.

Vì thế ta phải tự mình quyết tâm thực hành cho kỳ được điều này, tức là:

“Hãy để  cho các pháp tự vận hành!”

Hãy là người quan sát một cách độc lập quy luật vững chắc, tất yếu tự nhiên này của lý duyên khởi:

"Phàm bất cứ cái gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt".

Ví như,  chiếc cầu vòng xuất hiện giữa hư không rồi sẽ đoạn diệt trong hư không, các pháp (khi đủ duyên) hiện ra rồi (khi hết duyên) đoạn diệt theo đúng Pháp Tánh của chính nó.

Sự nhận thức này cho ta bừng vỡ ra rằng các Pháp rốt ráo chỉ là “chiếc cầu vòng trên hư không”. Sự xuất hiện của cầu vòng chính là một minh họa, phơi bày “nguyên lý quang học” do chính năng lực vô lượng quang của mặt trời đang thi triển.  Cũng thế, sự xuất hiện của các Pháp chính là sự phơi bày, bộc lộ năng lực biết luôn sáng chói của Tâm theo nguyên lý Duyên Khởi.  Nói cách khác:  Sự xuất hiện của các Pháp là sản phẩm duyên khởi của “đám mây đen vô minh”, của những “bám víu ái dục”, và “nguyên lý quang học” phản chiếu, biến hiện vô cùng vô tận của Tâm.  Sự thấu hiểu này đưa đến nhận thức được sự thật rằng:

  1. Khái niệm "Ta" chẳng qua chỉ là một góc nhìn  được phóng đại bởi đám mây đen Vô Minh.
  2. Sự  “hiện diện của các Pháp”  chỉ là những ảo ảnh do cái “Ta” đó phóng rọi ra.

Hãy để cho các Pháp tự vận hànhchiêm nghiệm lại (trong tĩnh lặng) sự vận hành của chúng theo đúng như lời dạy thâm sâu sau đây của Đức Thế Tôn.  Hãy nghe và khéo tác ý cho thật sâu:

1.       Tất cả pháp lấy dục làm căn bản.
2.       Tất cả pháp lấy tác ý làm sanh khởi.
3.       Tất cả pháp lấy xúc làm tập khởi.
4.       Tất cả pháp lấy thọ làm chỗ quy tụ.
5.       Tất cả pháp lấy định làm thượng thủ.
6.       Tất cả pháp lấy niệm làm tăng thượng.
7.       Tất cả pháp lấy tuệ làm tối thượng.
8.       Tất cả pháp lấy giải thoát làm lõi cây.
9.       Tất cả pháp lấy bất tử làm chỗ thể nhập.
10.   Tất cả pháp lấy Niết-bàn làm cứu cánh.
(Kinh “Lấy Căn Bản Nơi Thế Tôn” Tăng Chi Bộ Kinh, Phẩm 10 Pháp. AN 10.58 )

Hãy quan sát một cách độc lập, không bám víu, không hệ lụy.
Hãy để cho các Pháp tự vận hành theo quy luật của chính nó.
Hãy giữ Tâm thật bình thản trước sự thay đổi vô thường của các Pháp.
Xin đừng bám víu vào bất cứ điều gì.
Hãy “Như Lý Tác Ý” sự vận hành của tất cả Pháp cho đến khi nào xảy ra  một sự bùng vỡ nữa:

“Vô Ngã! Vô Ngã!”  Đây là đặc tính vi diệu khó thấy thứ ba của sự hiện hữu do Đức Thế Tôn ấn chứng

Ở đây, và bây giờ không còn việc gì đáng làm hơn thế nữa.

Vào lúc đó:

Tất cả pháp được giải thoát khỏi Vô Minh
Tất cả pháp thể nhập vào bất tử
Tất cả pháp cứu cánh Niết-bàn.

Con xin đê đầu đảnh lể Đức Từ Phụ đã chỉ con đường vượt khổ, chấm dứt vô minh, chứng ngộ bất tử, cứu cánh Niết Bàn.

Nguyện cho tất cả pháp (chúng sanh cũng là pháp) đều cứu cánh Niết Bàn.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1489)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 1939)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1764)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 1889)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1479)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2066)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1436)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1678)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1587)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1652)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1472)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2222)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 1917)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 1858)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1691)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2006)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1624)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1770)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 1978)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1515)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1762)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1732)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 1976)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1748)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1604)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1575)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1590)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1674)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 1956)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1544)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1507)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2030)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1785)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1594)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2138)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1783)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 1860)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
(Xem: 2057)
Đức Phật dạy về nhân quả thật rõ ràng. Ai gây nhân tạo mười loại nghiệp bất thiện thì chịu quả đi đến ác xứ, không thể đổi khác được.
(Xem: 2324)
Bình đẳng giới và trao quyền cho phụ nữ hiện đang được xem là yếu tố quan trọng đối với sự tiến bộ kinh tế, xã hộidân chủ
(Xem: 2352)
Buông là một triết lý nhân sinh của nhà Phật. Triết lý đề cao năng lựctrí tuệ cá nhân trên con đường vạn dặm dứt bỏ luân hồi nghiệp báo “trở thành Thánh Nhân (ariya savaka)”.
(Xem: 1887)
Phước đức là những việc làm lành thiện được làm ở bên ngoài hình tướng như bố thí, cúng dường, từ thiện, giúp ích cho mọi người…
(Xem: 2324)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường...
(Xem: 1695)
Thói đời, chúng ta thường hay nghe mọi người than rằng: “Kiếp nhân sinh của ta, là gì - ra sao?”
(Xem: 1723)
Đức Phật dạy được làm người là khó. Mong sao mọi người hiểu được Chánh pháp, cố gắng tu dưỡng để ít nhất được tái sinh trời, người.
(Xem: 2055)
Phật tử chân chính là người theo Phật, yêu quý Ngài, kính trọng giáo pháp của Ngài và đi theo con đường Tám Bước Cao Quý mà Đức Phật đã trải qua biết bao gian khổ mới tìm được.
(Xem: 2585)
Người giữ giới không sát sanh được Thiện thần bảo hộ, tai ách tiêu trừ, tuổi thọ dài lâu, con cháu hiếu thảo hiền lương, mọi chuyện đều may mắn tốt đẹp.
(Xem: 1481)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
(Xem: 1445)
Nhà thơ, nhà văn nổi tiếng người Đức Hermann Hesse có lần viết trong tác phẩm “Siddhartha” rằng: “Cả hai đều lắng nghe dòng nước, đối với họ đó không chỉ là dòng nước, mà còn là âm ba của cuộc sống, tiếng nói của cái đang là, tiếng nói của cái sắp là.”
(Xem: 1605)
Chúng ta sinh ra và lớn lên trong cuộc đời này nhưng không phải ai cũng hiểu được nhờ đâu mà ta sinh ra hay mất đi và vì nhân duyên gì mà ta khổ đau hay hạnh phúc?
(Xem: 1433)
Phật Giáo đã có mặt trên quê hương Việt Nam kể từ thời bình minh dựng nước của 2000 năm trước.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant