Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Tính Chất Đại Thừa Trong Phật Giáo Việt Nam

29 Tháng Ba 201614:53(Xem: 8364)
Tính Chất Đại Thừa Trong Phật Giáo Việt Nam

TÍNH CHẤT ĐẠI THỪA TRONG PHẬT GIÁO VIỆT NAM


Nguyễn Thế Đăng

Tính Chất Đại Thừa Trong Phật Giáo Việt Nam

 

Những Thiền sư VN đã sống trọn vẹn đời mình theo những điểm căn bản của Đại thừa như vậy, và một khi phát khởi tâm Bồ đề, Trí Huệ soi thấy Tánh Không, lòng Đại Bi, phương tiện thiện xảo được phát triển một cách trọn vẹn, đã làm nên cái đặc trưng mà chúng ta thường nói là tính cách nhập thế của Phật Giáo Việt Nam.

Đạo Phật từ khi du nhập phát triển ở nước ta luôn luôn có khuynh hướng Đại thừa rõ rệt. Một trong những khuôn mặt đầu tiên xiển dương PG ở nước ta là Khương Tăng Hội (thế kỷ thứ 3) với bản dịch Lục độ tập kinh (kinh nói về 6 hạnh Ba la mật của Bồ Tát) đã nói lên khuynh hướng đó. Trải qua gần 1000 năm phát triển, tinh thần Đại thừa càng nổi bậtthành tựu ở những nhà vua Thiền sư đời Trần: Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông. Phật giáo Đại thừa đã làm nên bản sắc PGVN, làm cho đạo Phật trở thành đạo Phật của người Việt, ứng hợp với tính cách của người Việt, mà rõ rệt là Trần Nhân Tông, người lập nên phái Thiền Trúc Lâm, phái Thiền đầu tiên và độc nhất của người VN trong suốt lịch sử đất nước.

Đại thừacon đường đạt đến Tánh Không để giải thoát, nhưng trong lúc nổ lực để giải thoát bản thân, người theo Đại thừa với lòng Đại Bi rộng lớn, vẫn không quên đồng loại hữu tình, mà vẫn phối hợp được giữa việc tự giải thoát qua Tánh Không (tự giác) với sự cứu giúp đồng loại đang bị che chướng trôi lăn trong vòng sanh tử (giác tha), để có thể nói rằng càng tụ giác Tánh Không bao nhiêu càng giác tha được bấy nhiêu, và càng giác tha bao nhiêu càng thâm nhập Tánh Không bấy nhiêu.

Sau đây chúng ta phát qua những chủ đề của Đại thừa được làm sống động trong PGVN như thế nào, để có thể nói rằng sức sống của PGVN chính là sức sống của Đại thừa.

1. Sự phát khởi Bồ đề tâm

Phát tâm Bồ đềphát tâm đạt đến tâm giác ngộ của chư Phật, đồng thời giải thoát cho tất cả chúng sanh. Tâm giác ngộ của chư Phật là Trí Huệ soi thấy Tánh Không rốt ráo của tất cả các pháp, gọi là Đại Trí. Tâm tìm cầu sự giải thoát cho tất cả chúng sanhĐại Bi. Phát khởi được Trí HuệTừ Bi gọi là phát Bồ đề tâm. Chúng ta thấy các Thiền sư Việt Nam đều đặt cuộc đời họ trong sự phát tâm Bồ đề này, trên cầu Phật đạo, dưới hóa độ chúng sanh. Chính vì các vị đã đặt cuộc đời mình vào trong hướng đi bao la và hùng dũng đó, mà hậu thế chúng ta đã có những tiểu sử hùng vĩ và bao la, hùng vĩ trong tình thươngbao la trong hành động, còn ghi lại như những dấu ấn của lịch sử VN, như Thiền sư Vạn Hạnh, người sáng lập đời Lý và thủ đô Thăng Long, như vua Trần Nhân Tông, người làm nên đỉnh cao của đời Trần và thể hiện trọn vẹn ý nghĩa "đời sống là đạo Phật, đạo Phật là đời sống".

Phát tâm Bồ đề, nền tảng cho mọi sự phát triển nở hoa của một cuộc đời PG được nhà vua Thiền sư Trần Thái Tông tóm gọn trong "Văn khuyên phát Bồ đề tâm":

"Cái quan trọng của thân mạng còn nên bỏ để cầu đạo Vô thượng Bồ đề, huống hồ là vàng bạc của báu vô thường mà lại luyến tiếc ư? Không biết một tính viên minh, chỉ theo 6 căn tham dục. Giàu sang cho lắm, đâu thể tránh được hai chữ vô thường, công danh nhất đời, chẳng thoát một trường đại mộng. Tranh nhân tranh ngã, rốt cuộc thành không, khoe giỏi khoe hay, đều là chẳng thật... Khi ấy mới hối, học đạo không nền. Chi bằng gấp rút đản đương, chớ để đời này lở dở... Hay đâu Bồ đề tánh giác, người người Viên mãn, Bát nhã căn lành, ai ai sẵn đủ. Hỏi chi đại ẩn tiểu ẩn, chẳng kể tại gia xuất gia, không nề Tăng tục, chỉ cốt rõ Tâm, nếu hay chiếu rọi trở lại, đều được thấy tánh thành Phật. Vượt lên chỗ chẳng tương quan gì với sanh tử, thấu tới cơ vi mà quỷ thần nhìn chẳng thấy".

Chính từ trong lời nguyện gói trọn tất cả cuộc đời đó, mà:
"Trong cõi Phật vô biên 
Thọ dụng làm Phật sự
Khiến tất cả chúng sanh
Đều phát tâm Bồ đề" 


2. Trí huệ soi thấu thực tại Tánh Không: 

Đó là trí huệ soi thấy tất cả các pháp đều do duyên khởi, vô ngã, vô tự tánh, nhờ đó mà tất cả các pháp danh sắc tạo thành sanh tử đều mất hết ảnh hưởng. Sanh tử như hoa đốm ở giữa hư không đã không có, tức thì giải thoát

Đất, nước, gió, lửa, thức
 Nguyên lai tất cả Không
Như mây trời tan hợp
Phật nhật chiếu vô cùng
Sắc thân cùng diệu thể
Chẳng hợp cũng chẳng lìa
Nếu thường hay tỏ rõ
Trong lửa: một nhành sen"
(Thiền sư Đạo Huệ)
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Kìa trông bóng nguyệt dòng sông 
Ai hay không có, có không thế nào"
(Thiền sư Từ Đạo Hạnh)


Chính nhờ trí huệ soi thấy Tánh KhôngBồ Tát tự tại ở nơi sanh tử hoa đốm, như Tuệ Trung Thượng Sĩ trong bài "Sanh tử nhàn mà thôi":

Sanh tử nguyên lai tự tánh Không
Huyễn hóa thân này rồi cũng diệt
Phiền não, Bồ đề ắt tiêu ma
Địa ngục, thiên đường tự khô kiệt

Sanh là vọng sanh, tử vọng tử
Bốn đại vốn không, từ đâu khởi? 
Pháp Thân không đến cũng không đi
Chân Tánh không phi cũng không thị

Người ngu điên đảo, sợ sanh tử
Kẻ tri thấy ra, nhàn mà thôi


Tóm lại nếu khôngtrí huệ soi phá vô minh để hiển lộ Tánh Không "bổn lai vô nhất vật" thì cũng không có cuộc đời Bồ Tát, bởi thế trí huệ được gọi là huệ mạng, mạng sống của người tu Bồ Tát đạo. Trí huệ đối với Bồ Tát như con mắt để sống ở đời, không có mắt thì sống mà cũng như chết, chỉ có trầm luân, chẳng thể nào tự cứu và cứu người. Có thể nói, Thiền tông Việt Nam là sự khai thị ngộ nhập Tánh Không này, và một vị Thiền sư là người lấy "Pháp Không làm nhà" (Pháp Không vi tòa) như kinh Pháp Hoa vậy.

3. Lòng Đại Bi hưng vận toàn bộ cuộc đời: 

Lòng Đại Bi là chất men làm dậy lên cuộc đời Bồ Tát. Lòng Đại Bisức mạnh khiến người tu hành nỗ lực đạt đến Trí Huệ để cứu đời, nhưng cũng đồng thời, khi càng có trí huệ, lòng Đại Bi càng tăng trưởng. Trí Huệ càng phát sáng, người tu hàng càng thấy rõ tính chất hư huyễn, không thực, không tự tánh của năm uẩn, và đau lòng thay, toàn thể thế gian đui mù không biết điều đó, vẫn điên đảo ngụp lặng, tạo nghiệp, sống chết trong cái lưới chằng chịt dệt bằng năm uẩn đang phủ chụp giam nhốt tất cả chúng sanh. Chính nhìn thế gian bằng con mắt trí huệ như vậy, người tu càng thêm lớn tâm Bi. Như người có mắt sáng nhìn vào đời sống lầm lộn, không thực của người mù, lòng thương xót càng lớn lao, mong muốn cứu giúp người kia hết mù được mắt sáng để khỏi điên đảo đau khổ sống chết ở đời. Mắt sáng là trí huệ, và trái tim là Đại Bi vậy.

Bởi lòng Đại Bi không hề vơi cạn này, đã dựng nên một cuộc đời nhà vua Trần Thái Tông hùng vĩ, mà sự vang vọng còn tới thế hệ ngày nay. Đây là 2 đoạn trong 6 bài nguyện của vua Thái Tông:

Ba nguyện gieo xuống vực cầu đại pháp 
Bốn nguyện xông vào lửa để ngộ nguyên nhân sâu xa
Năm nguyện đốt thân báo ơn công đức Phật
Sáu nguyện đập xương lấy tủy báo ơn Thầy
Bảy nguyện có người xin đầu cho không tiếc
Tám nguyện có người khoét lấy mắt cũng xem là thân

Và:

Ba nguyện biện tài trừ hết mê mờ
Bốn nguyện thích thuyết pháp độ quần sanh
Năm nguyện chuyển pháp luân vô tận
Sáu nguyện uống trọn dòng nước pháp
Bảy nguyện sớm được đại cơ như Tổ Đại Ngu
Tám nguyện chóng cùng Lâm Tế hét
Chín nguyện lưỡi dài như Phật che trùm
Muời nguyện trong sạch như trời xanh
Mười một nguyện thế gian không còn người câm ngọng
Mười hai nguyện địa ngục không còn tội lưỡi bị cày


Trong các bài kệ thị tịch, các Thiền sư ít nhắc đến lòng Đại Bi hơn là nói về Tánh Không, nhưng thực ra toàn bộ cuộc đời của các Ngài đều được vận động bằng năng lực Đại Bi. Vì Đại Bi mà vua Trần Thái Tông không lên ngôi, trốn lên núi Yên Tử tìm đạo cứu đời, và cũng vì Đại Bi mà nhà vua nghe theo lời Quốc sư Phù Vân trở lại đời làm vua vừa tận lực tu hành trong đời sống thường nhật. Vì Đại Bi mà vua Trần Nhân Tông cũng không muốn làm vua, và làm nhiệm vụ một ông vua rồi thì xuất gia đi khắp xóm làng giảng đạo. Vì Đại Bi mà các nhà sư vốn ưa ở núi rừng trở về triều làm Quốc sư, như Đỗ Pháp Thuận, Khuông Việt, Vạn Hạnh... Vì Đại BiThiền sư Pháp Thuận giả làm người chèo đò để tiếp sứ Tống, vì Đại BiThiền sư Viên Chiếu để lại cho đời những bài thơ văn chương đẹp đẽ nhất cho văn học PG. Và trong thế kỷ này, vì Đại BiBồ Tát Quảng Đức tự đốt thân mình làm ngọn đuốc soi sáng cho đời, soi sáng cho người bị chà đạp nhân phẩm lẫn cho người đang chà đạp nhân phẩm kẻ khác.

Nói chung, Đại Bi là nguồn lực vô tận làm sinh động PGVN. Ngày nay hầu như bất cứ chùa nào thuộc bất cứ hệ phái nào cũng có tượng Đại Bi Quán Thế Âm ở trước chùa, thậm chí nhiều nhà dân thường cũng thường thiết đặt tượng Đại Bi Quán Thế Âm ở trước nhà, điều đó cho chúng ta thấy nguồn cảm hứng về Tâm Đại Bi phổ biến đến mức nào ở nước ta.

4. Phương tiện thiện xảo

Phương tiện thiện xảophương cách để tự mình sống được ở đời mà không nhiễm ô, không tạo nghiệp, đồng thờiphương cách tối ưu để hóa độ cho đời theo đúng với cái nhìn Trí Huệ soi thấy Tánh Không và lòng Đại Bi trùm khắp muôn loài. Phương tiện thiện xảo là đứa con của người cha là Trí Huệ và của người mẹ là Đại bi. Phương tiện thiện xảođộ thoát chúng sanh mà không thấy có chúng sanh nào được độ, làm mọi công việc ơn ích cho đời mà không thấy có ai làm, đó là "người huyễn gây làm, mà vốn không làm".

Chúng ta thấy các Thiền sư đều có phương tiện thiện xảo này. Như Thiền sư Vạn Hạnh, người đã thực hiện lời huyền ký về một triều đại PG ở VN của những Thầy Tổ sống trước mình đến 200 năm, để lập ra một đờihiển hách cả đạo lẫn đời. Một kỳ công có một không hai đối với lịch sử như vậy, nhưng với riêng Ngài, thì chuyện ấy chỉ là sự thịnh suy của những hạt sương trên đầu ngọn cỏ:

Thân như ánh chớp có rồi không 
 Muôn vật xuân tươi thu héo hon
Tùy vận thịnh suy chi sợ hãi
Thịnh suy sương móc cỏ bên đường


Hoặc như vua Trần Nhân Tông, người đã từng hai lần chiến thắng quân Nguyên Mông, người khai sáng ra trung tâm Yên Tử, người đã từng qua Chiêm Thành thương thuyết đem về cho đất nước hai châu Ô Lý và sự hòa bình của hai quốc gia Chiêm-Việt, con người lại là một con người "vô vi" biết bao:
 
Vạn sự nước theo nước
Trăm năm lòng với lòng
Tựa lầu nâng sáo ngọc
Trăng sáng đầy cõi tâm


Con người suốt đời hoạt động đó, lại là một người suốt đời không rời khỏi thiền bản bồ đoàn để ngắm nhìn thế sự, có rồi không như hoa nở rồi rụng: 
Thiên bản bồ đoàn ngắm rụng hồng

Những con người Đại thừa như thế, có thể lấy một câu nói của Khổng Tử để kết luận, đó là con người "vô kỷ, vô công, vô danh". 

Ở trên, chúng ta đã lượt qua những điểm căn bản tạo nên cuộc đời Bồ Tất đạo, những yếu tố làm nên sức sống Đại thừa. Những Thiền sư VN đã sống trọn vẹn đời mình theo những điểm căn bản của Đại thừa như vậy, và một khi phát khởi tâm Bồ đè, Trí Huệ soi thấy Tánh Không, lòng Đại Bi, phương tiện thiện xảo được phát triển một cách trọn vẹn, đã làm nên cái đặc trưng mà chúng ta thường nói là tính cách nhập thế của Phật Giáo Việt Nam

Chính nhờ Đại thừa mà các vị vừa rất giải thoát vừa rất đi vào cuộc đời, vừa quá đỗi viễn ly vừa ở ngay trung tâm của cuộc sống, vừa là người đắc tam muội chánh định vừa là Quốc sư như Vạn Hạnh, vừa là Thiền sư vừa là một ông vua như Trần Thái Tông, vừa "chống gậy rong chơi, hề, phương ngoài phương" vừa giao du thân mật với sang giàu huyên náo của triều đình như Tuệ Trung Thượng Sĩ, nhập thất trong hang núi vừa là ông tổ của nghề hát chèo như Từ Đạo Hạnh... Phải chăng nhờ Đại thừachúng ta có những nhân vật tiêu biểu nhất của lịch sử VN?

Và để kết luận, có lẽ chúng ta không biết làm gì hơn là nguyện cầu cho sức sống Đại thừa còn tuôn trào mãi trong đời sống của dân tộc, để đưa dân tộc đến những bờ bến mới của cuộc trường chinh vô cùng của lịch sử.

Nguyễn Thế Đăng
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1702)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2016)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1715)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1715)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1885)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1888)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1553)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1725)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2061)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1808)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2366)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1708)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1708)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1670)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2113)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1938)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2080)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1621)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2230)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1587)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1867)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1751)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1815)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1652)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2387)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2101)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2054)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1857)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2209)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1787)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1905)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2135)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1671)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1927)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1922)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2138)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1908)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1759)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1745)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1741)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1856)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2151)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1703)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1676)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2229)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1949)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1767)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2337)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
(Xem: 1948)
Phải học kinh điển một cách khôn ngoan. Chúng ta biết rằng hơn 400 năm sau khi Bụt nhập diệt, kinh điển mới được chép thành văn.
(Xem: 2056)
Trong rất nhiều phương pháp giảng dạy thì phương pháp định hướng tư tưởng được đức Phật chú trọng sử dụng trong lời dạy của mình.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant