Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nghĩa Kinh Ứa Lệ

30 Tháng Ba 201619:28(Xem: 9173)
Nghĩa Kinh Ứa Lệ

NGHĨA KINH ỨA LỆ

Hồ Dụy

Nghĩa Kinh Ứa Lệ

 

Kinh vô lượng nghĩa. Vô lượng trước hết nên hiểu nghĩa từ cạn đến sâu, từ thấp lên cao. Phật giảng diệu lý, song đều tùy căn cơ chúng sanh mà nén năng lượng vào. Lời Đức Đạt Lai Lạt Ma: “Nếu không có cái nhìn tổng thể, có thể đôi khi người thực hành sẽ thấy giáo pháp, những phương pháp thực hànhĐức Phật ban có nhiều điểm mâu thuẫn”. Nghĩa kinh cao một trượng, người có công phu cao một thước sẽ hiểu một thước, người công phu cao nửa trượng sẽ hiểu tương ứng, cho đến người công phu vượt hơn trượng, thì nghĩa kinh vẫn tự lớn để tiếp tục hành trình khai ngộ. Dĩ nhiên, như một bậc chân tu từng nói: “Từ bậc Đẳng Giác trở xuống, hễ nói điều gì mâu thuẫn với kinh Phật thì chẳng đáng để tuân theo”.

Đức Phật lúc chưa giác ngộ dĩ nhiênphàm nhân; lúc Ngài chứng đạo, thì tướng ấy vẫn là một người thường, gần gũi chúng ta như cha mẹ hết lòng vì con cái. Đúng chăng? Dĩ nhiên đúng. Lại nói Đức Phật là thần, là thánh, là một vị từ cõi Phật đầu thai làm người thị hiện tướng thành đạo, khó nhọc tu tập từng bước, lúc đạt tứ thiền bát định, thấy vẫn chưa ra khỏi luân hồi lại tiếp tục tu cho đến Vô thượng chánh đẳng chánh giác. Đúng chăng? Nếu cho rằng sai tức ta phủ nhận Phật nương thuyền từ trở lại ta bà độ sanh, cùng vô vàn Bồ Tát dẫu đã “dìm thuyền” qua bờ kia vẫn tiếp tục trở lại “nhập vai” giáo hóa, kể cả vai ác (độ cho hàng đặc biệt). Giờ lại nói, Đạo Phật có phải tôn giáo? Đương nhiên đúng. Còn Đạo Phật không phải tôn giáo? Điều này quá đúng. Đạo Phật là khoa học, triết học? Rõ ràng. Còn là khoa học, triết học đỉnh cao. Nói Đạo Phật không phải tôn giáo? Quá đúng, vì nguyên gốc Đạo Phật vốn phơi bày chân tướng vũ trụ, Đức Phật thấy và tìm cách hướng dẫn chúng sanh sửa thân khẩu ý để vận mạng chuyển từ mê qua ngộ, trở về chân nguyên tự tánh. Nếu hiểu đúng gốc của từ tôn giáo (giáo dục điều trọng yếu), lại càng đúng. Chẳng vậy mà ta thường ngày vẫn gọi Bổn sư. Còn hiểu tôn giáo ở nghĩa tôn sùng Phật như thánh, sao không đúng cho được. Bậc chứng Sơ quả đã có thần thông, đến như Phật thì pháp lực vô biên, chẳng phải là vị “thần” cao nhất trong các vị thần đó sao. Đức Phật vốn tùy căn chúng sanh mà thuyết, nên kinh điển có những điều tưởng ý trái ngược. Thời nay có cao tăng giảng kinh, nếu nghe loáng thoáng ta cũng sẽ nhầm vị này tự mâu thuẫn. Chẳng hạn lúc thì bảo “hữu cầu tất ứng”, học Phật chân chính muốn cầu tiền tài liền có, cầu danh vọng có danh vọng. Giảng thêm thì ngài bảo tuyệt không tham cầu nghiệp thế gian. Rồi nữa là “pháp thường ưng xả…”. Chỗ này ngài nói phải chuyên ròng niệm Phật; lúc cần rốt ráo lại bảo niệm Phật phải có nền tảng Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo, Thập thiện; không có nền tảng đó niệm Phật cũng chỉ deo duyên mà thôi! Các sư bên Nam tông thường vẫn quán xác chết để cảnh tỉnh: Sau một hơi thở là thân này mất hẳn. Còn có vị lập ra Thiền kinh tởm, xem hình người chết không toàn thây tạo nên những “cú sốc”, phải vừa xem vừa trì chú, niệm Phật; cũng là nằm trong lý vô thường. Bỏ nền tảng Tiểu thừa, tức làm dối lời Đức Thích Ca: Không tu tiểu thừa tu Đại thừa không phải đệ tử ta. Bỏ nền tảng, tâm vẫn khởi cầu về cõi Phật, song cầu mình sẽ sống thêm ngày tháng thì mãnh liệt bội phần. Niệm Phật không quán vô thường, đến lúc hấp hối vẫn tiếc thân này, một câu Phật hiệu tự mình niệm không nổi trong an nhiên, nói gì đến mười câu hay trăm vạn câu.

Đạo Phật không tham. Nhưng, tham có cần? Có. Thực ra là chuyển công năng của tham. Tập khí vốn tham, giờ tu thì chuyển tham trần cảnh thành tham pháp. Chẳng như thấy B ngồi thiền đạt định mấy tiếng, ta bèn “tham”, muốn bằng; mỗi ngày một thời công phu nay tăng lên hai thời, rồi ba, niệm niệm cũng cố đoan chánh hơn. “Tham” để tiếp nhập cảnh giới, có cảnh giới cao mới xả tham buông tham được. Tâm vốn động, ban đầu phải dẫn sự động đó quay về chân niệm; từ nhiều chân niệm quy về một niệm. Từ một [chân niệm] trở về không thì dễ buông hơn. Đạo Phật không mê tín. Vậy mê tín cần chăng? Có. Chẳng như một người lâm đường cùng, không còn hy vọng nữa họ bỗng hướng về tâm linh. Ông thầy khuyên, thôi con niệm Phật đi, Phật sẽ cứu, sẽ mở ra đường sáng. Người kia không thấy, nhưng tin “ông thần Phật” sẽ cứu mình, đó là một thứ mê tín, song là phương tiện dẫn đạo, nên cần. Cứ để họ mê tín. Rồi ông thầy đưa cho người kia Phật pháp, bảo con về đọc về nghe, kết hợp niệm Phật, Phật sẽ cứu. Người kia làm theo, nghe, đọc, chợt hiểu té Phật “không thể” cứu mình, Phật chỉ là chỉ ra cách giúp mình cải nghiệp nạn, giải thoát. Và trên con đường vượt bể khổ đó có ngũ giới thập thiện. Trước sát sanh giờ bỏ, trước vọng ngữ đôi chiều giờ bỏ, trước tà dâm giờ tuyệt tình. Niệm Phật. Một thời gian tâm sáng chuyển được cảnh tối tăm. Niềm tin trước kia mù quáng, bây giờ niềm tin thanh sạch. Thế là mê tíngiá trị. Dùng trí duy vật học duy tâm, dùng tâm duy vật tu duy tâm sẽ thành ra thế nào chắc không cần bàn nhiều. Ngôn ngữ vốn có tính làm thước đo tri thức, song chính nó cũng góp phần cản trở việc giải ngộ. Sở tri chướng. Nói thời mạt pháp Kinh điển diệt hết, nếu hiểu ở nghĩa đen là cạn, không còn gì để bàn thêm! Kinh diệt là ý người đời sẽ giảm dần niềm tin tâm linh, kinh càng cao siêu [về trí tuệ] càng trở nên xa vời, họ tin sự hưởng thụ vật chất. Rồi nữa, thời mạt pháp chỉ còn Lục tự hồng danh, là bởi cuộc sống vồn vã, vật chất bao phủ từng giờ từng phút, đến ngồi xuống ăn cơm cũng chẳng kịp, nên hành giả tu Niệm Phậttiện lợi, chẳng gì khó hiểu. Thời nay, thử hỏi số Phật tử theo Tịnh tông nhiều hay theo các pháp môn khác nhiều, cũng đã rõ. Ngôn ngữ phàm trần luôn bị bó hẹp và hạn chế, ngữ nghĩa nhiều khi chết cứng. Một tác phẩm hay cũng đọc dăm ba lần là chán, phim đoạt giải thế giới cũng chỉ xem lần thứ hai là cùng. Kinh thì nghe đi nghe lại, càng nghe càng thấm càng tươi mới. Câu Phật hiệu niệm hoài mãi, càng niệm càng hoan hỷ; mới nhập môn hơi khó chịu, khép mình vào thời khóa cũng tạm khả dĩ, song hàng xóm nhỏ to thì tâm lao theo trần cảnh; Phật hiệu thêm sâu thì thấy an lạc, nhạc nhẽo quán xá cà phê gần cũng không ảnh hưởng đến sự nghe “A Di Đà Phật” khởi từ tâm. Bên kia đám cưới hò hét ầm ào, ngồi trong nhà âm thanh rung vách tường, vẫn không ảnh hưởng việc niệm Phật của ta. Tâm khởi chữ nào tai nuốt trọn chữ đó, cứ thế mà an nhiên.

Huy động ngôn ngữ thế gian cũng khó thông được diệu lý “A Di Đà Phật”. Ngay đến bình phẩm thế tục, ngôn ngữ cũng không thể bao hàm hết ý nghĩa thâm sâu. Chẳng hạn Cô đơn, từ này thiển nghĩ xuất phát từ phương Tây, lúc cái đích của con người là bước trên thảm nệm vinh hoa chứ không chịu đi trên lưỡi dao sự thật. Vũ trụ vô biên, một khi con người đứng trên sự tung hô là lúc họ sắp “đội trần”. Trong dòng phim kiếm hiệp có cụm từ “cao thủ cô đơn” như Độc Thủ Đại Hiệp, Độc Cô Cầu Bại. Xét trên bình diện xã hội, đây là ưu điểm. Nhược điểm là sự cô đơn ấy luôn đối diện với bế tắc, ngõ cụt. Một khi ai đó tiệm cận chân lý tối thượng, chính là họ lội ngược dòng đời tìm bản lai diện mục, đối diện “cô đơn”. Nhưng sự cô đơn này luôn dung chứa hỉ lạc. Lùi xa với dòng đời thấy trời cao biển rộng. Càng hỉ lạc càng cô đơn, càng cô đơn càng hỉ lạc, con đường phía trước càng mở ánh sáng khôn cùng. Người niệm Phật biết trước ngày giờ vãng sanh, tự tại mà vút đi (như lão cư sĩ Ngụy Quốc Hưng); người niệm Phật vãng sanh, để lại xá lợi toàn thân vàng ròng làm chứng cho pháp môn tối thắng (như cụ Hoàng Ngọc Lan); chính là những người “cô đơn”. Họ cô đơn với số hành giả tu Niệm Phật chỉ niệm khơi khơi bề ngoài và nhất là không khép mình vào giới luật đoạn tham sân, không quán Tứ niệm xứ để phá thân kiến vô thường. Họ cô đơn với những người thiển cận về Tịnh tông, với những người báng niệm Phật và không tiếp nhận Đại thừa.  

Thời nay nhiều người không tin nổi Niệm Phật. Không tin thì cứ tin lấy pháp mình đang hành (Thiền chẳng hạn), nhờ đó tăng trưởng công phu, nếu dự được vào dòng thánh rồi phản bác cũng chưa muộn. Đáng buồn họ lại sớm dụng trí so lường Phật pháp. Nhiều người thấy giới niệm Phật bèn cho đây là hành động của tôn giáo cầu may, so sánh niệm Phật với niệm thiên. Họ dùng tam đoạn luận kiểu như: muốn lên Thiên đàng hãy niệm thiên; muốn lên Cực Lạc hãy niệm Phật; như vậy niệm Phật cũng là tôn giáo. Ý họ muốn kéo Phật A Di Đà xếp hàng cùng chư Thiên. Họ đã hiểu ở nghĩa thấp nhất tinh thần kinh điển. Phật Thích Ca giảng điều trọng yếu: Mười pháp giới đều do tâm tạo. Tâm mỗi chúng sanh đều chứa trọn mười pháp giới. Tâm bạn nếu thời thời khắc khắc chỉ nghĩ [niệm] thiên, cảnh giới thiên sẽ được tạo dựng nguy nga trong tâm ấy, lúc mạng chung thức dễ có cơ hội bay về thiên. Điều này không lạ lắm. Chuyện đời từng có một chủ trang trại ngựa, suốt ngày nghĩ đến ngựa, ăn với ngựa ngủ với ngựa, đi đứng nằm ngồi đều tưởng [niệm] ngựa, trước lúc ngủ, chợp mắt, lúc vừa tỉnh đều nghĩ ngựa. Ngựa và ngựa. Trong tâm người ấy chỉ có ngựa mà thôi. Một hôm bà vợ vào nhà thấy con ngựa đang nằm ngủ trên giường, chính là chồng bà do tâm [ngựa] hiện tướng ngựa. Dĩ nhiên người ấy chỉ thành ngựa trong thời khắc nhất định. Nhưng để thấy tâm chuyên nghĩ gì sẽ tạo nên cảnh ấy. Tâm [niệm] tham là đang xây “lâu đài” quỷ. Tâm luôn [niệm] sân thì mở đường về A tu la. Niệm thiênniệm Phật đều giống nhau ở chỗ niệm, khác ở đối tượng được niệm. Tâm chuyên niệm ngựa thì thành ngựa, tâm chuyên niệm thiên, tưởng cảnh thiên, lúc mạng chung sẽ hướng thiên mà bay.

Người chuyên niệm Phật sẽ về cõi thanh tịnh của chư Phật. Tâm vốn tạp, vốn không một khắc ngưng nghỉ sự dao động, tức luôn niệm. Ta không tác ý nó vẫn tự niệm. Nếu tác ý niệm thiện, sẽ tạo nên tương lai thiện, tác ý niệm ác thì ngược lại. Có nghĩa, nếu ta không tác ý thì nó sẽ tự niệm theo tập khí, theo nghiệp lực từ thói quen trong kiếp này và cả từ tiền kiếp. Ta không tác ý niệm Phật, tâm sẽ tự niệm chín cõi còn lại, mà dễ vào nhất là niệm tham sân si (tương ứng với tam đồ). Đây là điều Đại sư Triệt Ngộ từng khai thị thấu đáo. Ngay cả bậc thiền, nếu chỉ dựa vào thời khóa công phu mỗi ngày vài thời, mỗi thời vài ba tiếng chăng nữa, lúc xả thiền, ra đường dạo mát hay làm Phật sự, nếu không thực sự thực hành thiền minh sát, tỉnh giác trong ý niệm dấy lên khắc khắc, thì tập khí phiền não dễ khởi như cốc nước vừa lắng đục lại khuấy. Người niệm Phật thì ngoài thời khóa, câu Phật hiệu đã thuần thục, dẫu có chạy xe trên đường hay ở bất cứ nơi ồn ào, tâm họ vẫn khởi niệm Phật [tai nghe] rõ ràng. Điều này tối thắng. Nó khiến công phu được kéo dài, ngân dài một cách an nhiên không gắng gượng. Dĩ nhiên niệm gì cũng trước hết phải nghiêm trì thập thiện, phải quán vô thường, khổ, vô ngã để phá tà kiến; trong đó quan trọng là thân kiến mới có thể không dính mắc thân, tâm, cảnh ở cõi Ta bà (nếu muốn sanh về Tịnh độ). Tu pháp môn nào cũng phải nằm trong giới luật. Không tu trong giới luật tức đang dạo trên đường biên Phật pháp. Thiền, niệm Phật, niệm chú lại không giữ giới cũng là xây lâu đài trên cát. Người niệm Phậthành trì ngày đêm tám tiếng chăng nữa, nhưng không khép mình trong thập thiện, không quán đời hư huyễn công phu sẽ không thăng tiến, rõ nhất là niệm vẫn niệm mà tập khí vẫn dấy, vẫn sân giận vẫn phân biệt vẫn vọng tưởng, rốt cùng là tâm không thể định. Tu Niệm Phật (vốn động, trước hết là ở miệng), nhưng niệm thành phiến thì chuyển vào tâm niệm, tâm niệm sâu thì vào định. Đó là cách tỉnh giác trong từng giây phút; tỉnh thức là quán. Gọi đúng là quán câu Phật hiệu. Từ quán trở về không.

Không cần truy đến đời các tổ sư trong Tịnh tông (dẫu trong tổ của Tịnh có nhiều vị là thiền sư, cũng là tổ của Thiền và nhiều tông môn khác); chúng ta hãy nhìn vào tấm gương của một số đại đức cận hiện đại sẽ rõ. Hòa thượng Tuyên Hóa, người niệm Phật đạt công phu tột đỉnh, đến thỉnh hòa thượng Hư Vân, liền được ấn chứng [đắc quả]. Sau này ngài Tuyên Hóa đã tự nhận nhiệm vụ nặng nề qua phương Tây hoằng pháp. Người Tây vốn dụng trí, tin khoa học, nên ngài lấy Thiền làm căn bản. Ngài là bậc “chân truyền”, ngày ăn một bữa, giới luật tót vời, lưng không dính chiếu. Về lực thiền, việc Hòa thượng nhập định một tháng hay ròng suốt 49 ngày, điều này không là thông tin xa lạ trong giới tu tập. Bây giờ ta thử đặt câu hỏi nho nhỏ: Người chân tu, sống đúng phạm hạnh của Đức Phật Thích Ca, bao người ngồi định được vài ba ngày? (Ở đây xin phép không bàn tới các bậc chân tu đang ẩn mình). Để nói rằng, ai chưa ngồi thiền (gọi đơn giản là nhắm mắt bất động) được vài ba ngày, liệu có phê phán bậc đại sư Tuyên Hóa; người đã giảng những gì? Ngài đặc biệt coi trọng và giảng kinh Địa Tạng. Và căn dặn: chớ đụng vào một chữ trong bộ kinh này, tức chớ nghi ngờ một chữ (dẫu đó là chữ dịch chưa sát nghĩa), chứ nói gì đến nghi ngờ không phải Phật thuyết. Ngài lại giảng kinh A Di Đà, rằng “có một khắc niệm Phật thì có một khắc không vọng tưởng, cho đến từ sáng đến tối niệm niệm không lìa Phật, thì ngày ấy không vọng tưởng. Vọng tưởng không nổi lên tức là Diệu Pháp”. Trong pháp hội giảng bộ kinh này, ngài từng so sánh với Thiền. Ta tin chắc ngài đã nhập vào các cảnh giới thiền thâm sâu, nên lời ngài là nói ra cái sự đã chứng, chứ không đơn thuần hợp theo ý kinh ý tổ. Và đây là cảnh giới Thiền của ngài: “Sơ Thiền có thể không còn thở nữa, không có sự hô hấp. Ở cảnh giới này tuy không còn hô hấp nhưng vẫn có một niệm động, một khi phát sanh niệm động này thì hô hấp sẽ trở lại”. “Mạch ngừng lại, khi hô hấp không còn nữa thì mạch cũng ngừng luôn, giống như người chết. Tuy mạch ngừng đập nhưng không phải chết. Đó là cảnh giới của Nhị Thiền”. Rõ ràng, những quý vị hành thiền, cũng nên đặc biệt tham khảo, để làm mốc phấn đấu. Bởi đến tóc bạc vẫn chưa vào được cảnh giới Sơ Thiền, chí ít là đắc định (chưa bàn đến đắc quả, thì kiếp này khó quá!

Ngài Hư Vân, bậc thiền lỗi lạc. Công phu thiền của ngài thật đáng ngưỡng vọng. Có lần ngang qua một cây cầu, ngài vịn tay vào thành cầu rồi định luôn, bất động như bức tượng đứng đó suốt ba ngày đêm mưa gió tuyết phủ. Nhưng, khá nhiều đệ tử của ngài, ngài khuyên niệm Phật và nhờ đó họ biết trước ngày giờ về Cực Lạc. Có lần cao tăng Hư Vân viết thư trả lời một Phật tử nhờ ngài siêu độ cho con, có câu: “Ngay hôm nhận được lời căn dặn, bèn vì lệnh lang niệm Phật hồi hướng ba ngày, chắc là đã nương theo Phật quang tiếp dẫn”. Bàn về bậc chân tu thiền lỗi lạc khuyến người niệm Phật, còn phải kể đến lão Hòa thượng Quảng Khâm. Ngài có quãng thời gian dài ở rừng, miên man trong định đến râu tóc dài cả thước. Rồi được thỉnh về chùa độ sanh, ngài là một khuôn mẫu chân chính bậc nhất của đệ tử Đức Phật, sống gần như theo hạnh đầu đà, chuyên ngủ ngồi. Pháp môn ngài truyền giảng là gì?: Niệm Phật. Ngài từng nói: Ngoài sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật ra, ta không còn gì để giảng thêm.

Những ai từng không tin: niệm Phậtthể nhập vào đại định chứng Niết Bàn, hẳn người đó phải đạt công phu tương đương hoặc vượt xa ba vị thượng nhân kể trên. Hoặc là họ vì chưa hành tới bến nên chưa thể hiểu. Khó trách. (Anh hiểu tôi anh sẽ không nói vậy). Thực tế ai tu thiền nếu chưa ngồi định được hàng ngày, hàng tuần hàng tháng trở lên, giảng về thiền, sự giảng đó vẫn là bằng những gì học được từ sách vở, từ tổ sư đại đức, rất y kinh, làm lợi lạc quần sanh, song e vẫn còn miễn cưỡng. Để thấy, ai chưa niệm Phật đến công phu thành phiến, nhất tâm (công phu này theo các tổ đã vào được định, dẫu định chưa sâu), nếu chỉ cần khởi ý bài xích, trước hết sẽ là lỗi lầm quá lớn quá lớn đối với pháp giới. Phật từng nói, những gì ta giảng như lá trong nắm tay, những gì ta chưa giảng [về vũ trụ] như lá trong rừng. Phàm nhân sẽ hoàn toàn mù mờ về cảnh giới của người chứng quả thánh; Tu đà hoàn không thể biết đến cảnh giới của nhị quả Tư đà hàm,... Theo đó mà lên, Bồ Tát không thể thấu hiểu cảnh giới của Phật. Soi đến tấm gương của Thiên Thân Bồ tát từng viết 500 bộ luận phê phán Đại thừa, sau này tu cao lên mới ngộ mình quá lầm, nguyện xin được cắt lưỡi sám hối với Phật, mới giật mình.

Là một người hành pháp tồi, nghiệp dày đức mỏng, ngã mạn sân hận chất ngất, tưởng được làm Phật tử ngon lành rồi, đâu ngờ lâu nay tôi vẫn phạm giới quá nặng, phước đức tổn hao không kể xiết. Đứng đầu là nghiệp ý. Theo khoa học lượng tử, mỗi giây con người thu vào hàng tỉ thông tin, trong lúc ta chỉ thực sự nhận biết một phần. Điều này đã lý giải nguyên lý vũ trụĐức Phật giảng rõ trong kinh. Mỗi người là tiểu vũ trụ, song tiểu đó chứa đại vũ trụ; tức tướng có nhỏ to sai khác, song tánh đồng thể. Sau này có vị đại sư đưa nguyên lý, mỗi người như bọt nước trên biển, không biết và bị chướng ngại để biết rằng lúc bọt nước ấy vỡ tan, thì chính nó là biển cả. Mỗi giây, hàng tỉ tỉ ý niệm từ nhân loại phóng ra, thành một dạng sóng, đều ùa vào a lại da thức mỗi cá nhân, song ta chỉ nhận biết khoảng một phần tỉ nhờ mắt tai mũi lưỡi thân ý. Có thể ví dụ: một lần tôi đang nằm ngủ, mơ thấy người bạn xin số di động của Q. Tôi từ lâu đã nhớ số Q liền đọc cho họ. Mới đọc được bốn số 0914..., bỗng chuông điện thoại reo. Tôi giật tỉnh, dựng dậy chộp điện thoại; lạ không, Q đang gọi. Có nghĩa, trước lúc Q bấm gọi cho tôi, đã nghĩ về tôi, đã phóng ý niệm về tôi (lúc tôi đang ngủ); ý niệm đó liền khởi động tâm thức trở thành cơn mộng (mơ thấy tôi đang đọc đúng số điện thoại của Q cho người xin số).

Trong một giây biết bao ý niệm như vậy xuyên vào a lại da, tôi lại không hề nhận biết. Đơn giản, bởi tâm tôi quá ư động loạn. Nếu tâm trong lặng tịnh tĩnh, ai đó vừa nghĩ đến mình đã biết ngay. Còn cao hơn, chân tâm ấy sẽ như ngôi nhà không cửa, ý niệm trôi qua chẳng hề mảy may gợn sóng, nên không bị nghiệp lực chi phối (từ những ý niệm hữu/vô tình phóng qua). Hoặc đó là những người chuyên đặt tâm vào quán hơi thở, chuyên lần theo một câu chú, câu Phật hiệu, tâm lần chữ nào tai nghe rõ chữ đó, từng câu nối thành chuỗi, từng chuỗi nối nhau nên không ý/vọng niệm nào xen ngang. Gọi vọng tâm là bởi tâm ấy chứa nhiều tạp niệm, kể cả tạp niệm về Phật pháp. Tạp niệm nhiều cũng giống như một lễ hội với đủ mặt người dự phần. Lễ hội thì luôn vui, càng vui càng vời gọi người tham dự. Nếu trong lễ hội tưng bừng, ta gặp một người, ngồi với chỉ một người ấy nói chuyện hệ trọng, ta chăm chú bắt từng câu từng chữ của cuộc chuyện, và dẫu giữa ồn ào song thực chất không hề ảnh hưởng đến kết quả của cuộc hội thoại giữa ta và người. Bây giờ ta đang sống bằng vọng tâm với vô vàn tạp niệm, nếu thực hành niệm câu Phật hiệu, lần theo từng chữ, như vậy ta đang lần trở về chân tâm, an trú an lạc. Lâu ngày đoạn tháng, từ niệm ra tiếng chuyển vào mặc niệm, tâm dính chặt vào câu niệm; Phật hiệu như được khắc vào tâm, sẽ đạt từ định cạn đến định sâu. Sâu thì ngoài Phật hiệu ra không hề thấy vọng niệm. Tính ra cũng phải nhờ khép mình trong ngũ giới thập thiện chuyên trì niệm mỗi ngày ít nhất vài thời công phu, mỗi thời ít nhất một tiếng; ngoài ra, trừ hoạt động trí não việc thế gian, làm Phật sự, hễ rỗi chút là Phật hiệu lại vang. Các tổ sưcao tăng Tịnh tông hiện thời đều cho rằng nếu đạt công phu thành phiến sẽ có cơ hội về cõi Cực Lạc (ở các phẩm phương tiện). Còn so với thành tựu cao nhất của Tịnh tông, thì công phu thành phiến vẫn được xếp vào mức cạn. Công phu sâu là từ hữu niệm trở thành vô niệm, niệm mà không có sự niệm, rỗng không, tức nhất tâm, sẽ dần nhập đại định. Tâm ấy là tâm Phật, là vũ trụ, là niết bàn.

Thiển nghĩ chúng ta tu pháp môn nào cứ thế mà hành. Hành để chứng, đó mới là điều tối quan trọng. Hành để cho/thấy mình cao thâm là chấp trước sâu nặng, lúa cao cỏ cũng cao, công phu tăng ngã cũng lớn thêm. Bậc chân tu không nhìn lỗi thế gian. Lỗi phàm tình còn không nhìn, huống hồ lỗi ở tà giáo; huống hồ nhận cả những pháp môn mình chẳng hành đến đầu đũa tự ban quyền phán xét.

Nhìn chúng sanh khổ, là từ cái chủng tử khổ [chưa đoạn được] trong tâm mình phóng ra. Nhìn Phật tử mê lầm, cũng chính là chủng tử ấy từ vọng tâm ta phóng chiếu mà thôi.

H.D
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 8261)
Trong những thập niên gần đây, chúng ta đã chứng kiến những sự tiến bộ phi thường trong sự thấu hiểu của khoa học về não bộ và thân thể con người,
(Xem: 9451)
Dưới đây là phần chuyển ngữ một bài viết về một phụ nữ Pháp thật phi thường là bà Alexandra David-Néel (1868-1969).
(Xem: 10199)
Mọi người đều nên có một tôn giáotôn giáo này biểu lộ tư tưởng của họ. Không có tôn giáo, con người sẽ trở thành mối nguy hiểm cho xã hội.
(Xem: 9039)
Bất cứ quốc gia nào, xã hội nào cũng có những loại tín ngưỡng truyền thống do nhiều thế hệ lưu lại.
(Xem: 9134)
Để giải thoát chúng ta khỏi khổ đau, chúng ta phải thấu hiểu những gì xảy ra trước khi khổ đau.
(Xem: 11197)
Cuộc sống luôn biến động, mọi thứ thoắt ẩn thoắt hiện, có đó rồi không đó. Không ít người đã tự chiêm nghiệm và ...
(Xem: 9933)
Khi chúng ta giận ai, chúng ta thường bám vào khía cạnh nào đó của người đó. Thông thường, chỉ cần một hay hai giây phút cũng đủ buông ra...
(Xem: 17406)
Năm mươi năm qua, Cố HT Thích Thiên Ân, Thiền Sư Thích Nhất Hạnh, và nhiều tăng, ni và cư sĩ Phật Giáo Việt Nam khác đã nỗ lực không ngừng đem Phật Pháp đến với người Mỹ bản xứ...
(Xem: 8047)
Khi chúng ta tiếp cận thế kỷ 21, thì những truyền thống tôn giáo thích đáng hơn bao giờ hết.
(Xem: 8270)
Đạo Phật không phải là tôn giáo như chúng ta thường gọi bây giờ, mà là một con đường sáng để phá tan tối tăm mờ mịt...
(Xem: 8454)
Tôi thường tự giới thiệu mình như một tu sĩ Phật Giáo giản dị vì cá nhântính cách của tôi...
(Xem: 8112)
Tôi Được Triệu Đến Để Trở Thành Đức Đạt Lai Lạt Ma Để Phụng Sự Người Khác.
(Xem: 9991)
Biết ứng dụng lời Phật dạy vào cuộc sống thì nhân thân trở thành điểm son cho xã hội, và xã hội sẽ là một cộng đồng để chúng ta muốn sống.
(Xem: 8120)
Trong mùa đông của năm 1940, người ta đem tôi đến điện Potala, nơi tôi được chính thức đăng quang như một lãnh tụ tâm linh của Tây Tạng.
(Xem: 9592)
Khi thực hành chánh niệm là khi ý tưởng bắt hiện ra trong tâm, thì quý vị chỉ cần theo dõi hay buông xả cho chúng tự biến đi.
(Xem: 8398)
Những ngày trong đời tôi bắt đầu vào khoảng ba đến ba giờ rưởi sáng. Khi thức dậy, tôi nghĩ về Đức Phật,
(Xem: 8240)
Ở Dharamsala, trong những người Tây Tạng lưu vong, chúng ta đi gặp người này, một con người trọn vẹn mà chỉ tiếp cận với người ấy có thể thay đổi chúng ta.
(Xem: 8521)
Từ bi có thể bị trộn lẫn với khao khát và dính mắc: tình thương của cha mẹ dành co con cái...
(Xem: 9745)
Mỗi người chúng ta sinh ra trong đời này đều có túc duyên khác nhau. Ai cũng có nghiệp chung, nghiệp riêng, tùy theo khả năng tạo nghiệp của mình.
(Xem: 11108)
Có một anh chàng trai nghèo khổ nhưng lại có một tâm đạo rất lớn.
(Xem: 10125)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ. Chắc chắn khi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương -ghét.
(Xem: 9295)
Bài viết này được đăng tải trên nhiều trang mạng, và gần đây hơn đã được giới thiệu qua lá thư hàng tháng của Viện Nghiên Cứu Phật Học.
(Xem: 9440)
Cũng nhờ tâm con người vô thường, luôn thay đổi, chúng ta mới tu được, mới chuyển hóa được những ý nghĩ xấu xa.
(Xem: 11718)
Biện tài hay biện tài vô ngại là một trong những phẩm chất cần thiết của vị sứ giả Như Lai.
(Xem: 8530)
Bất kể chúng ta đến từ nơi nào trên thế giới, một cách căn bản tất cả chúng ta là những con người như nhau.
(Xem: 9105)
Chí nguyện thứ nhất của tôi trong đời sống, như một con người, là thúc đẩy những giá trị nhân bản và những phẩm chất đó của tâm linh
(Xem: 8808)
Đức Đạt Lai Lạt Ma là vị tái sanh lần thứ mười bốn thuộc dòng truyền thừa hình thành với sự hóa thân Giác Ngộ từ bi...
(Xem: 9214)
Nghiệt ngã thay dòng đời mê muội, bởi thấy biết sai lầm nên mới chuốc họa vào thân, dù biết đó là tai hại, khổ đau, nhưng nhiều người...
(Xem: 10779)
Trong Tâm lý học Phật giáo, có sáu Thức nhận biết: Nhãn thức, Nhĩ thức, Tỉ thức, Thiệt thức, Thân thứcÝ thức.
(Xem: 9895)
Chúng ta sống để được tự dohạnh phúc, nhưng phải có hiểu biếtnhận thức đúng đắn, chứ không phải chấp trước...
(Xem: 8474)
Trên con đường tu học, nếu ta không can đảm bỏ bớt con mắt thứ hai, mà thậm chí còn thêm nhiều con mắt khác...
(Xem: 9853)
Nguyên nhân của khổ đau, luân hồi sinh tử là gì? Là sự chấp ngã bám víu vào sắc thân năm bảy chục ký lô này là ta, là của...
(Xem: 9945)
Nếu con người có khả năng yêu thương bằng trái tim hiểu biết, sẽ dễ dàng tiếp nhận bình an, hạnh phúc thật sự ở cõi lòng, mà không hề có...
(Xem: 8796)
Tâm tham ái dục vọng là một dòng chảy miên man vô tận, bởi các thói quen lâu đời do ta đã huân tập.
(Xem: 13298)
Thái độ sống lạc quan là điều cần thiết để giúp chúng ta sáng suốt nhìn thấy bản chất của cuộc đời là luôn đối lập nhau.
(Xem: 10008)
Đệ tử tại gia hay xuất gia ai ai cũng làm tròn bổn phận của mình, hỗ trợ nhau, làm thiện tri thức của nhau trên con đường thật tu thật ngộ của Phật.
(Xem: 9135)
Ai cũng biết bố thí là san sẻ, cho đi một phần những gì mình có. Bố thí thì được phước.
(Xem: 26759)
Có những lời nói khi thốt ra làm tan nhà nát cửa, nước mất, nhà tan, tổn hại dân chúng; nhưng cũng có những lời nói làm cho gia đình sống an vui, hạnh phúc...
(Xem: 9866)
Hầu như người đời ai cũng có lần giận dữ chỉ là sự thường. Thế nhưng nhà Phật cho giận dữ là một trong những trạng thái tâm lý quan trọng...
(Xem: 12714)
nhân quả của một người hay cộng nghiệp của một quốc gia không phải tự nhiên mà có, mọi việc đều do chúng ta tạo tác mà kết thành quả báo.
(Xem: 10739)
Chúng ta phải học biết cách sống trong hiện tại để có thể cảm nhận, tận hưởng được niềm vui và hạnh phúc trong cuộc sống này.
(Xem: 9845)
‎Cái gì có nương tựa, cái ấy có dao động. Cái gì không nương tựa, cái ấy không dao động. Không có dao động thì có khinh an.
(Xem: 10134)
Đạo Phật không chấp nhận quan điểm cố định, cái gì cũng đổ thừa cho số mệnh để rồi cuối cùng, cuộc sống giống như bèo dạt mây trôi.
(Xem: 11015)
Cho đến nay Tâm vẫn là một khái niệm trừu tượng. Có tâm hay không? Nếu có, tâm nằm ở đâu trong mỗi con người?
(Xem: 9752)
Trong cuộc sống hằng ngày, ta thường bám níu vào giây phút hiện tại bất cứ lúc nào tưởng như giây phút hiện tại là cố định và không bao giờ biến mất.
(Xem: 10062)
Tu hành quan trọng là phải thấy được cốt lõi trọng yếu và giữ ở mức trung đạo, không để nghiêng lệch qua bất cứ bên nào.
(Xem: 9491)
Theo tuệ giác Thế Tôn, nếu hai người tu tập như nhau cùng giữ giới đức và có trí tuệ hiểu biết ngang nhau, nhưng về ...
(Xem: 9855)
Là người Phật tử, con của Đấng Giác Ngộ, chúng ta phải có đức tin chơn chánh, được đặt nền tảng trên sự hiểu biết đúng đắnsáng suốt.
(Xem: 8692)
Người cúng dường thì được phước báo không nghèo khổ, người tùy hỷ thì được phước báu không ganh tị tật đố, bởi vì...
(Xem: 8435)
Bố thí là nền tảng cơ bản để kết nối yêu thương, sẻ chia cuộc sống nhằm làm vơi bớt nỗi đau bất hạnh của...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant