Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Chúng Ta Nên Xét Quả Ngừa Nhân!

14 Tháng Tư 201607:17(Xem: 9283)
Chúng Ta Nên Xét Quả Ngừa Nhân!
CHÚNG TA NÊN XÉT QUẢ NGỪA NHÂN!

HT Thích Thanh Từ

Chúng Ta Nên Xét Quả Ngừa Nhân!

Biết rõ quả hẳn từ nhân mà có, không có chuyện ngẫu nhiên. Hiên tại khổ hay vui đều do nhân quá khứ đã tạo, muốn không khổ , muốn được an vui, phải tránh nhân xấu, đó là chân lý thiết thực. Kinh dạy :“ Bồ tát sợ nhân, chung sanh sợ quả” . Bồ táttrí tuệ thấy rõ quả vốn từ nhân mà sanh, nên cẩn thận từ cái nhân, không muốn có cái quả đó thì trước phải tránh cái nhân đó. Trái lại, chúng sanh vì thiếu trí tuệ, cái nhân ác cứ tạo rồi khi quả đến thì than van, oán trách, chạy trốn hoặc tự tử… Song trốn làm sao khỏi, khi quả đã chín tới? Mình chửi người, mà muốn người đừng chửi lại, đừng oán hờn mình sao được ? Nếu mình có quyền thế, họ không dám chửi lại ngay lúc đó, nhưng họ cũng hận trong lòng, gặp dịp mình thất thế họ sẽ trả lại cho mình.

Phật dạy người Phật tử phải biết giữ gìn năm giới cấm, chính là ngừa cái nhân dữ, giúp người sống được an vui đúng pháp. Kinh Pháp Cú có câu :
Người ngu làm điều ác
Không tự biết lỗi lầm
Khi tội thành, hoạ đến
Tự thiêu đốt thân tâm.

Người học Phật chân chính phải nắm vững lẽ thật này để sống khế hợp với Phật Pháp.
Hơn nữa, người hiểu đạo, biết rõ quả vốn từ nhân mà có, nên dù gặp quả khổ đến vẫn cứ bình tĩnh trả, không oán trách than thở. Tổ Bồ Đề Đạt Ma dạy về Hạnh Báo Oán như sau ;
“ Người tu hành khi gặp phải cảnh khổ, phải tự nghĩ nhớ rằng : Ta từ trong vô số kiếp lâu xa, đã bỏ quên gốc chạy theo ngọn, đành bị trôi nổi lang thang trong các cõi. Ở trong đó phần nhiều dấy tạo không biết bao nhiêu điều trái nghịch, oán ghét, hận thù. Nay đây, tuy không có phạm phải, nhưng đó là họa ương đời trước của mình, cái quả của nghiệp dữ đã chín muồi, chớ chẳng phải trời, chẳng phải người hay ai đem đến cho mình, sẵn lòng mà nhận chịu thôi, đều không sanh tâm oán trách. Kinh nói : “ Gặp khổ chẳng lo buồn. Tại sao ? Vì biết thấu suốt duyên cớ”

Tức là người biết tu, khi gặp cảnh khổ đến, tự xét rõ, đây là do nhân quá khứ của mình đã tạo, không phải ngẫu nhiên ai đem đến cho mình. Dù đời này mình không có tạo nhiều nghiệp ác, song trong quá khứ lâu xa của dòng luân hồi , mình đã tạo biết bao thứ nghiệp đâu thể nhớ biết, nay quả đã chín tới thì phải chịu, như có nợ trả xong thì nhẹ nhàng. Còn nhân lành hiện nay mình đã làm, nó sẽ kết thành quả về sau không mất đi đâu. Do quán xét như thế nên bình tĩnh trước cảnh khổ, yên tâm tu hành. Trái lại, người đời không rõ lẽ nhân quả sâu xa ấy, khi gặp cảnh khổ tới thì oán trời trách đất, tưởng như trời đất bất công, sao cứ đem cảnh khổ đến cho mình. Không ngờ đó là quả của mình đã tạo từ trước, oán hận, nguyền rủa, càng tạo thêm nghiệp mới, khổ chồng thêm khổ, không thể hết.

Kinh Pháp Cúcâu chuyện :
Thuở xưa có anh chàng mồ côi cha, sống nuôi mẹ rất hiếu thảo. Đến tuổi trưởng thành nhưng chàng không chịu lấy vợ. Thấy con làm việc nhọc nhằn, bà mẹ khuyên chàng nên lấy vợ để giúp bớt việc nhà. Lần đầu chàng từ chối, nhưng bà mẹ nói nhiều lần, chàng đành chịu, và bà tìm cưới cho chàng một cô gái trong xóm. Không may cô dâu này không sinh đẻ, bà mẹ thì nóng lòng muốn có cháu, nên bà lại bàn với con trai cưới thêm vợ lẽ. Chàng trai nhất định không chịu. Bà mẹ cứ khuyên nhiều lần khiến cô vợ nghe được. Cô nghĩ, nếu để bà đi cưới vợ lẽ cho chồng thì cô sẽ bị xem thường, chi bằng tự cô đi cưới vợ lẽ cho chồng. Cô tìm được một cô gái trẻ trong xóm cưới về cho chồng. Nhưng rồi cô cũng không an tâm. Cô dặn người vợ lẽ này khi nào có thai thì cho cô hay để cô mừng. Cô vợ sau thật thà, khi biết mình có thai bèn báo cho cô vợ cả. Cô này bèn tìm cách bỏ thuốc phá thai, kết quả cô vợ sau bị sảy thai. Lần thứ hai cũng thế. Các chị em hàng xóm thấy vậy tò mò hỏi thăm và biết là do cô vợ cả hại, bèn bảo cô này không nên thật thà báo cho cô ấy biết nữa.

Lần thứ ba có thai , cô này im lặng không cho cô vợ cả biết. Nhưng cô ấy thấy bụng cô vợ sau to dần thì hỏi đến. Biết được rồi , cô không chịu thua, cũng tìm lúc cô vợ sau sơ hở, bèn bỏ thuốc phá thai như trước. Nhưng cái thai đã lớn thành hình nên khiến cho cả mẹ lẫn con đều chết. Trước khi nhắm mắt, cô vợ sau uất hận thề phải trả thù trong kiếp sau. Sau khi chết cô ta sanh làm con mèo trong nhà ấy. Ông chồng biết sự việc, bèn đánh đập người vợ cả, khiến người này cũng bệnh chết và tái sanh làm con gà mái ở trong nhà. Mỗi khi con gà mái đẻ trứng thì con mèo đều đến ăn sạch. Lần thứ ba thì nó bắt ăn luôn gà mái mẹ.

Gà mái chết sanh làm con beo cái. Con mèo sau đó không lâu cũng chết sanh làm con nai cái. Mỗi khi nai cái sanh con đều bị beo đến bắt ăn. Lần thứ ba thì nó bắt ăn luôn nai cái.

Nai cái chết lại sanh làm quỷ Dạ xoa và beo cái chết thì sanh làm một con gái trong một gia đình tôn quý ở Xá Vệ. Khi lớn lên cô gái lập gia đình. Một thời gian sau, cô sanh đứa con đầu lòng. quỷ dạ xoa bèn biến thành người bạn thân của cô đến thăm. Người nhà không biết, bèn chỉ cho dạ xoa vào phòng cô gái. Dạ xoa đi vào phòng và nhanh tay chộp lấy đứa bé nhai nuốt gọn. Lần thứ hai cũng thế. Đến lần thứ ba cô vợ bàn với chồng, ở đây có quỷ dạ xoa đã ăn thịt hai đứa con trước, lần này định phải trở về nhà cha mẹ để sinh nở.

Nói về quỷ Dạ Xoa, lúc ấy tới phiên phải đi lấy nước cho vị chúa tể cai quản mình, mấy tháng sau mới hết hạn trở về. Quỷ Dạ Xoa vội vã tìm đến gặp người vợ trẻ này. Đến nơi thì được biết cô này đã đi về nhà cha mẹ, nó liền chạy vào thành tìm.

Lúc này đã đến ngày đặt tên, bà mẹ tắm rửa và làm lễ đặt tên cho đứa con xong, bàn với chồng trở về nhà.
Trên đường về, đi ngang qua Tinh xá, đến hồ nước của Tinh xá, cô giao con cho chồng và xuống hồ tắm. Tắm xong, cô lên ẵm con cho chồng tắm. Ngay lúc ấy, Dạ Xoa chạy tới, cô vợ hoảng hốt, vội ẵm con chạy thẳng vào Tinh xá. Gặp lúc Thế Tôn đang thuyết pháp giữa chúng hội, cô đặt đứa bé dưới chân Thế Tôn và thưa :“ Con xin cúng dường Ngài đứa bé này, xin Ngài cứu lấy nó !”.

Quỷ rượt tới cổng Tinh xá bị thần giữ cổng ngăn lại. Thế Tôn biết, bèn bảo Tôn giả A-nan gọi vào. Thế Tôn dạy :”Sao ngươi làm như vậy ? Nếu không gặp một vị Phật như ta, ngươi sẽ ôm ấp mối hận này đến ngàn đời không khác gì con rắn và con cáo hay quạ và cú. Sao ngươi lấy oán trả oán ? Chỉ có tình thương mới dập tắt được hận thù. Thế Tôn liền nói kệ :
Đời này hận rửa hận,
Muôn thuở chẳng sạch thù.
Từ bi rửa sạch hận,
định luật ngàn thu.
Dứt bài kệ Dạ Xoa đắc quả Tu-đà-hoàn, và giải toả được mối oan trái hận thù từ nhiêu kiếp.

Quả thực nếu không hiểu Phật pháp, rõ thấu lý nhân quả, cứ đem hận thù kết chặt với hận thù, tạo thành cái khổ truyền kiếp. Cần cởi mở thì nhẹ nhàng và an vui cả hai. Oán hận nên cởi không nên cột, là điều cần phải nhớ !
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 590)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 771)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1098)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1266)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 995)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1337)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 754)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 803)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 820)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 793)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 779)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 936)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 822)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 979)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 994)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 921)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 922)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 847)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1003)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 945)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 889)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 984)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 895)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 841)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 949)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1005)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1143)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1605)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1154)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1249)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1104)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 965)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 909)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 951)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 793)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1474)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1351)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1321)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1263)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1367)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1322)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1468)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1345)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1198)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1255)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant