Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Kiếp Trước Kiêu Ngạo Kiếp Này Cả Đời Thất Vọng

26 Tháng Tư 201618:01(Xem: 8881)
Kiếp Trước Kiêu Ngạo Kiếp Này Cả Đời Thất Vọng
Kiếp Trước Kiêu Ngạo Kiếp Này Cả Đời Thất Vọng

Mai Trà
Kiếp Trước Kiêu Ngạo Kiếp Này Cả Đời Thất Vọng

Cổ nhân cho rằng con người làm việc gì cũng đều có nhân quả báo ứng, thiếu nợ cái gì phải hoàn trả cái đó. Trước đây có một người nông dân mù chữ, ai có thể ngờ rằng kiếp trước ông lại là một vị hàn lâm? Chỉ vì kiếp trước phạm phải sai lầm mà tạo thành kiếp này cả đời thất vọng.

Một niệm thiện gặp được Thần, một niệm ác gặp phải ác quỷ.

Ý niệm của con người rất quan trọng, nếu là thiện niệm sẽ mang đến vận may còn nếu là ác niệm sẽ sinh ra phiền toái thậm chí là tai họa giết chết bản thân.

Vào triều đại nhà Nguyên, ở Sơn Đông có người nông dân mù chữ tên là Nguyên Tự Thực. Gia cảnh nhà anh ta rất giàu có, sống nhờ vào đồng ruộng và trang viên rộng lớn. Cùng quê với anh ta có một người tên là Mâu Quân, Mâu Quân may mắn được làm một chức quan nhỏ. Vì thiếu tiền đi đường nên Mâu Quân đã đến nhà Tự Thực vay 200 lượng bạc. Tự Thực vì có tình cảm đồng hương nên đã cấp đủ số tiền đó cho Mâu Quân.

Vào những năm cuối triều Nguyên, Sơn Đông đại loạn, Tự Thực bị nhiều toán cướp đến cướp bóc nên gia tài không còn gì cả. Lúc ấy, ở Phúc Kiến lại rất yên ổn. Vì vậy, Tự Thực đã dẫn vợ và con đến Phúc Châu với ý định tìm kiếm Mâu Quân để nhờ vả nương tựa.

Cả nhà họ đến Mâu gia, bái cầu và vừa khóc vừa nói: “Năm mới sắp đến, vợ con đói khổ lạnh lẽo, trong túi không có một đồng xu, trong thùng cũng không còn một chút thức ăn nào. Trước đây, ngài vay tôi 200 lượng bạc, hôm nay tôi cũng không dám yêu cầu ngài trả lại, chỉ mong ngài cứu giúp chúng tôi khỏi cảnh chết đói là cũng coi như đã ban ơn cho bạn bè xưa cũ rồi. Mong ngài thương cảm chúng tôi một chút!” Nói xong, cả nhà họ quỳ gối, dập đầu xuống mặt đất.

Mâu Quân đỡ họ đứng dậy rồi đưa ngón tay ra tính toán: “Qua 10 ngày nữa sẽ là giao thừa, anh có thể ở tại nhà chờ đợi. Tôi sẽ phái người mang đến nhà anh, hai thạch gạo, hai nén bạc để làm chi phí mừng năm mới. Hy vọng anh không chê ít.” Hơn nữa, anh ta còn cẩn thận dặn dò cả nhà họ cứ yên tâm chờ đợi, không cần ra ngoài mong ngóng.

Tự Thực cảm kích quay về, cũng dùng những lời nói của Mâu Quân để an ủi vợ con. Nhưng cứ hết ngày này qua ngày nọ, họ một mực chờ đợi mà vẫn không nhận được những thứ mà Mâu Quân đã hứa.

Ngày hôm sau đã là sang năm mới, vì bị thất hứa nên gia đình Tự Thực không có lấy một nhúm cơm để ăn, vợ con sụt sùi khóc lóc. Tự Thực phẫn nộ, vụng trộm mài sẵn một con dao sắc bén đợi trời sáng.

Đến lúc tiếng trống canh vừa dứt, Tự Thực một mạch chạy đến nhà Mâu Quân, chỉ đợi anh ta ra ngoài sẽ đâm chết. Lúc này, trời vẫn tờ mờ chưa sáng hẳn, trên đường không có bóng dáng một ai, chỉ có một vị hòa thượng Hiên Viên ngồi trong ngôi chùa nhỏ đối diện thắp nến tụng kinh. Vị hòa thượng trông thấy Nguyên Tự Thực đi phía trước, phía sau có mười mấy tên quỷ hình thù kỳ quái đi theo, có tên cầm đao kiếm, có tên quỷ cầm gậy tóc tai bù xù, bộ dạng rất hung ác.

Một lúc sau, Tự Thực lại trở về. Phía sau Tự Thực có khoảng 100 người đầu đội kim quan, thân đeo ngọc bội đi theo. Có người giương cao cờ phiến và dù che, có người lại giơ cao cờ phiến loại khen ngợi với vẻ mặt ôn hòa, điệu bộ vô cùng thảnh thơi. Vị hòa thượng nghĩ rằng Tự Thực chắc chắn đã chết rồi. Sau khi tụng kinh xong, ông liền vội vội vàng vàng đến thăm Nguyên Tự Thực và bất ngờ bởi Tự Thực vẫn bình an vô sự.

Nhà Quảng Cáo


Hiên Viên hỏi Tự Thực: “Sáng sớm nay, ông đi đến đâu mà sao lúc đi lại vội vội vàng vàng nhưng lúc về lại chậm rãi như vậy? Hy vọng ông nói cho tôi nghe một chút được không?“

Tự Thực không giấu diếm liền kể hết cho vị hòa thượng nghe: “Mâu Quân không có đạo nghĩa khiến tôi rơi vào cảnh vô cùng khốn đốn. Buổi sáng sớm nay, tôi đúng là đã mang theo dao, định đến giết chết anh ta cho thỏa nỗi uất ức trong lòng. Nhưng đến lúc cổng nhà họ mở ra, tôi lại đột nhiên nghĩ: “Anh ta đúng là đã đắc tội với mình, nhưng vợ con của anh ta đâu có tội tình gì? Hơn nữa, anh ta còn có mẹ già. Nếu như hôm nay ta giết chết anh ta thì cả nhà họ biết nương nhờ vào ai? Thà rằng để người ta phụ lòng mình cũng không để mình phụ lòng người được.” Thế là tôi đành nhịn cơn tức giận quay trở về.“

Hòa thượng Hiên Viên sau khi nghe xong, chắp tay hành lễchúc mừng: “Ông làm như vậy sẽ có hậu phúc bời vì Thần linh đã minh tỏ chuyện này.” Tự Thực liền hỏi nguyên do.

Hiên Viên trả lời: “Ông có niệm ác thì ác quỷ đến, ông có niệm thiện thì phúc thần (bùa hộ mệnh) sẽ phủ xuống. Điều này là như hình với bóng, như là tiếng vọng từ âm thanh mà thôi! Cho nên đừng nảy sinh tâm làm điều ác, cũng không thể phạm tội mà tổn đức.” Hiên Viên còn đem chuyện mình đã nhìn thấy kể lại hết cho Tự Thực, đồng thời cũng tận tình an ủi, lấy ra một ít gạo và tiền cứu trợ gia đình họ. Nhưng mà Tự Thực vẫn không thể vui, đến tối hôm đó, anh ta đã lên giếng trong một ngọn núi tự vẫn.

Ai ngờ nước giếng đột nhiên rẽ ra, hai bên bờ đá dốc đứng, chính giữa có một đường hẹp chỉ đủ cho một người đi. Tự Thực vừa mò mẫm vừa đi, chỉ đi khoảng mấy trăm bước thì hết con đường và làm lộ ra một cửa ngõ. Ở đây có thể nhìn thấy trời đất rộng lớn, ánh sáng chiếu rọi, y hệt như một thế giới khác.

Tự Thực nhìn thấy một tòa cung điện lớn, trên tấm biển có viết 4 chữ bằng vàng: “Tam sơn phúc địa”. Sau khi chiêm ngưỡng xong, Tự Thực liền đi vào cung điện, chỉ thấy toàn hành lang đều im ắng. Anh ta không dám bước tiếp, nhìn xem tứ phía xung quanh, xa ngút ngàn dặm cũng không có một bóng người, chỉ nghe thấy tiếng chuông ngân vang, loáng thoáng có mây bay đến. Lúc này, Tự Thực đã rất đói khát, không thể đi nổi nên nằm thiếp đi bên cạnh thạch đàn. (thạch đàn là đàn tế lễ cổ ngày xưa).

Bỗng nhiên có một vị đạo sĩ đi đến trước mặt Tự Thạch, gọi anh ta dậy rồi cười hỏi: “Hàn Lâm công đi ra ngoài tìm hiểu đã hiểu rõ mùi vị bên ngoài chưa?“

Nguyên Tự Thực chắp tay trả lời: “Rời xa quê nhà, tôi đã thưởng thức đủ mùi vị rồi! Vì sao ngài lại gọi tôi là “Hàn Lâm” vậy?“

Đạo sĩ nói: “Ngài chẳng lẽ không nhớ gì về chuyện khởi thảo chiếu thư ở Hưng Thánh Điện sao?“

Tự Thực nói: “Tôi là một nông dânSơn Đông, dân thường hèn hạ, mù chữ dốt đặc, cả cuộc đời chưa từng dạo chơi qua kinh thành, sao có thể khởi thảo ra chiếu thư mà ngài nói vậy?“

Đạo sĩ nói: “Ngài chính là bị rối loạn nên không còn nhớ sự tình xảy ra trước đây rồi!” Thế là, ông ta liền lấy mấy miếng lê táo giấu trong tay áo ra cho Tự Thực ăn, còn nói: “Sau khi ăn hết, ngài sẽ biết rõ sự tình trong quá khứ và tương lai.“

Nguyên Tự Thực ăn xong lê táo, liền tỉnh ngộ mà nhớ lại thời học sĩ. Những việc khởi thảo chiếu thư trong Hưng Thánh Điện tại kinh thành như vừa xảy ra ngày hôm qua vậy! Tự Thực lập tức nói: “Xin hỏi ngài, kiếp trước Tự Thực phạm phải tội gì mà kiếp này phải chịu báo ứng như vậy?“

Đạo sĩ nói: “Ngài cũng không phạm tội gì lớn cả, chỉ là lúc đương chức đã tự cao tự đại về học vấn của mình, không chịu cất nhắc dạy bảo học trò, cho nên kiếp này phải chịu cảnh ngu muội không biết chữ. Ngài cũng cậy có tước vị cao nên không kết giao với những kẻ tha phương có tước vị thấp cho nên kiếp này phải chịu cảnh phiêu bạt.“

Nguyên Tự Thực liền đem chuyện Mâu Quân thiếu nợ ra hỏi. Đạo sĩ nói: “Người đó chính là người quản kho của Vương Tướng quân, tài vật sao có thể tùy tiện lộn xộn sử dụng được? Không tới ba năm, thế đạo sẽ có đại biến động, đại họa sắp sửa tiến đến, vô cùng đáng sợ. Ngài nên lựa chọn địa phương ở lại, nếu không chỉ sợ sẽ bị liên quan đến mà lọt vào tai hoạ.“

Tự Thực cầu xin đạo sĩ chỉ cho nơi có thể sinh sống tránh né chiến tranh, loạn lạc. Đạo sĩ nói: “Phúc Thanh có thể sống.” Rồi lại nói:”Không bằng Phúc Ninh.” Đạo sĩ còn nói thêm: “Ngài đến đây đã lâu rồi, người trong nhà đều đang rất mong mỏi, hiện tại ngài có thể trở về đi.“

Nói xong đạo sĩ chỉ cho Nguyên Tự Thực một con đường để trở về, Nguyên Tự Thực đi hơn hai dặm đường và phát hiện phía sau núi có một cái động thông ra bên ngoài.

Trở về đến nhà mới biết đã 6 tháng trôi qua. Tự Thực vội vàng mang vợ con đến Phúc Ninh, khai hoang ruộng đồng, trồng trọt sinh sống qua ngày. Lúc anh ta cuốc đất, chợt nghe thấy tiếng loong koong, phát hiện ra bốn đĩnh bạc chôn dưới đất vì vậy cuộc sống cũng đỡ khó khăn hơn. Còn Mâu Quân sau này vì chiến tranh loạn lạc nên bị Vương Tướng quân giết chết và cướp hết gia tài, mọi việc xảy ra giống như lời đạo sĩ đã nói trước.

Nguyên Tự Thực vào thời khắc mấu chốt có thiện niệm đã cải biến được phần đời còn lại. Đối với con người ngày nay có lẽ cũng là bài học để tham khảo!

 
Theo Đại Kỷ Nguyên tiếng Trung
Mai Trà biên dịch
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1078)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1262)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 990)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1325)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 780)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 748)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 800)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 818)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 790)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 930)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 816)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 974)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 982)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 914)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 917)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 843)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1000)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 943)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 977)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 893)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 839)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 944)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 872)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1134)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 900)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 998)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1130)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1600)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1151)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1233)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 960)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 947)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 790)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1349)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1319)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1257)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1362)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1316)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1460)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1340)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1194)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1244)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1310)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1292)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant