Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vai Trò, Ý Nghĩa Của Nhận Thức Về Vô Thường Trên Con Đường Tu Tập Giải Thoát.

14 Tháng Năm 201606:57(Xem: 9202)
Vai Trò, Ý Nghĩa Của Nhận Thức Về Vô Thường Trên Con Đường Tu Tập Giải Thoát.

VAI TRÒ, Ý NGHĨA CỦA NHẬN THỨC
VỀ VÔ THƯỜNG TRÊN CON ĐƯỜNG TU TẬP GIẢI THOÁT.

Tô Đăng Khoa


Vai Trò, Ý Nghĩa Của Nhận Thức Về Vô Thường Trên Con Đường Tu Tập Giải Thoát.

 

Sabbe sankhara anicca!                                                             

Tất cả các Pháp Hữu Vi là vô thường!

Đó là một sự thật! Cũng là lời di huấn cuối cùng của Đức Bổn Sư dành cho chúng ta trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Trường Bộ Kinh:

“Này các tỷ kheo, Tất cả các Pháp Hữu Vivô thường, hãy tinh tấn chớ có phóng dật”

Là người con Phật chúng ta cần suy nghiệm cho thật kỹ về lời di huấn tối hậu này của bậc từ Phụ.

Sự thật Vô Thường này là đương nhiên, đang  phơi bày chính nó, ngay trước mặt của chúng ta, 24/7, không có gián đoạn ngay cả lúc ta đang ngủ.

Vô thường không bị chi phối bởi thời gian, tức là tất cả Pháp vô thường trong cả ba thời:  quá khứ,  hiện tại, và tương lai.

Vô thường không bị giới hạn trong không gian, tức là cả vũ trụ này vô thường,  cả thiên giới, ma giới, và nhân giới đều vô thường.

Ngay cả thân ngũ uẩn của ta cũng vô thường:  Sắc, thọ, tưởng, hành, thức đều vô thường.

Vô thườngsự thật không phụ thuộc vào nhận thức của bạn, tức là bạn có nhận ra, hay không nhận ra, điều đó không có thay đổi được gì về sự thật này, các pháp vẫn vô thường (nhưng nếu bạn nhận ra và sống đúng với quy luật vô thường thì bạn sẽ bớt khổ).  Vì thế hãy đến để thấy đúng như thật như vậy:  “Vô Thường”

Vô thường là một sự thật, tuy hiển nhiên như vậy, nhưng không phải ai ai cũng có nhận thức sâu sắc về điều đó.  Độ sâu của nhận thức vô thường này tùy thuộc vào công phu tu tập của từng người.

Kết quả của việc làm cho sung mãn nhận thức vô thường này thật to lớn, không thể nghĩ bàn:

Phật dạy trong Kinh Tương Ưng Bộ về lợi ích đó như sau:

Này các Tỷ-kheo:

 -- Do tu tập, làm cho sung mãn nhận thức về vô thường một cách sâu sắc, tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả tham đắm về tất cả các hình tướng được chấm dứt, tất cả khao khát hiện hữu cảnh giới này cảnh giới kia tham được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ.

Ví như, này các Tỷ-kheo, một người làm ruộng, vào mùa thu, dùng một cái  cày lớn cắt đứt tất cả rễ mọc trong khi cày. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, do tu tập, làm cho sung mãn nhận thức về vô thường, tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả sắc tham được chấm dứt, tất cả hữu tham được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ.

Trong ví dụ trên, nhận thức về vô thường được dụ như lưỡi cày lớn và sắc bén, có thể cắt đứt tất cả rể cây trong khi cày. Trong ví dụ này, rể cây ví dụ cho khát ái, vô minh, và ngã mạn; hành động cày bừa chính là việc tu tập. Còn “nhận thức vô thường”  là lưỡi cày.   Như vậy nhận thức về vô thường là một dụng cụ không thể thiếu của người tu, cũng giống như chiếc cày là dụng cụ không thể thiếu của người nông dân.

Như vậy chúng ta cần phải tu tập nhận thức về vô thường như thế nào, để làm cho lưỡi cày ngày càng sắc bén?  Làm thế nào để cho sung mãn “nhận thức vô thường”  khiến cho tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả vô minh được chấm dứt, tất cả ngã mạn được tận trừ?

Nhận thức về Vô thường về Pháp có hai loại:

  1. Nhận thức về vô thường của hiện tượng thế gian bên ngoài
  2. Nhận thức về vô thường của tự thân bên trong, tức là ngũ uẩn, năm khối cấu tạo nên con người

Nhận thức về vô thường của hiện tượng thế gian bên ngoài là kết quả của sự quan sát tinh tế chủ quan kết hợp với tư duy hợp lý, để đưa đến kết luận về sự vô thường của thế giới hiện tượngNhận thức này được xếp vào Tư Tuệ trong Tam Tuệ của Văn Tư Tu.

Nhận thức về vô thường của tự thân bên trong, tức là ngũ uẩn, chính là gốc rể của sự tu hành vì một khi  Ngũ Uẩn, và đặc biệt hơn hết chính ý thức, cũng được nhận ra một cách sâu sắc là vô thường thì đối tượng của ý thức, tức là thế giới hiện tượng, không thể nào thường hằng được.

Như vậy đối tượng chính của nhận thức vô thường là tự thân bên trong chứ không phải là thế giới hiện tượng bên ngoài.

Vì sao? Vì thế giới hiện tượngthế giới hiện ra cho tự thân kinh nghiệmThế giới hiện hữu do tự thân, cho tự thân, và vì tự thân. Khi tự thân còn thì thế giới còn.  Khi tự thân diệt, thì thế giới diệt. Một khi tự thân là vô thường, là rổng không, là không thực chất tính, thì thế giới cũng tương ưng.

Sự vô thường của tự thân ngũ uẩn có hai khía cạnh cần phải nhận diện rõ ràng rốt ráo ngay trong sát na đang là của chính nó: 

  1. Nhận ra sự sanh khởi ngay trong sát na đang là của chính nó
  2. Nhận sa sự đoạn diệt ngay trong sát na đang là của chính nó

Phàm cái gì được sanh ra, cái đó sẽ đoạn diệt!  Sanh Sanh Diệt Diệt:  Đó chính là vô thường!

Để thiết lập nhận thức sâu sắc về sự vô thường của tự thân thì: Đối với từng uẩn một trong năm uẩn, ví dụ đối với sắc uẩn, chúng ta cần bình thản, chân chánh nhận rõ:

  1. Đây là Sắc
  2. Đây là Sắc tập khởi
  3. Đây là Sắc đoạn diệt

Tương tự như vậy đối với Thọ, Tưởng, Hành, và Thức:

  1. Đây là Thức
  2. Đây là Thức tập khởi
  3. Đây là Thức đoạn diệt

Chúng ta cần để ý đến cấu trúc câu “Đây là…X” của Phật dạy.  “Đây là...X” chỉ có ý nghĩa nếu nó được nhận diện trong sát na đang là của X.  Bằng không cấu trúc câu sẽ mất đi ý nghĩanhư thật- như vậy” của nó và không còn có tính chất phơi bày như  một sự thật mà chỉ trở thành một thói quan lầm bầm “Đây là…X”, “Đây là…X” một cách máy móc.

Nếu “nhận thức về vô thường” được tu tập như vậy ngay trên tự thân, được làm cho sung mãn như vậy ngay trên tự thân ngủ uẩn,  thì “tất cả dục tham được chấm dứt, tất cả sắc tham được chấm dứt; tất cả hữu tham được chấm dứt; tất cả vô minh được chấm dứt; tất cả ngã mạn được tận trừ.”  Tức là đúng như lời dạy của Đức Phật  Thích Ca.

Phật Tử  làm được như vậy và vị Thừa Tự Pháp, làm cho Chánh Pháp được trường tồnthế gian, là con Phật. Là người thi hành đúng Di Giáo của đức Từ Phụ.

Nguyện cho chánh pháp của thế tôn luôn được gìn giữ trong đời sống hàng ngày của từng người Phật Tửhạnh phúc thực sự và an lạc thực sự cho muôn loài.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1204)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 933)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1254)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 718)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 689)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 761)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 770)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 753)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 748)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 901)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 782)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 941)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 944)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 872)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 876)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 813)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 962)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 895)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 835)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 924)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 846)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 806)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 903)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 837)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1099)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 867)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 951)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1098)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1571)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1110)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1182)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1056)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 920)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 867)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 912)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 758)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1438)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1314)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1276)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1215)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1332)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1281)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1419)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1297)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1163)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1206)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1265)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1250)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1363)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant