Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Một Nét Hương Lòng

01 Tháng Sáu 201620:34(Xem: 9279)
Một Nét Hương Lòng

MỘT NÉN HƯƠNG LÒNG

Thành kính dâng Giác Linh Bổn Sư Trưởng Lão Hòa Thượng thượng Chơn hạ Phát, Phương Trượng Tổ Đình Long Tuyền, Hội An, tân viên tịch.

Như Hùng

Người đi rũ bỏ sắc không

Lời kinh Bát Nhã rơi miền tịch dương

 

Từ phương trời Mỹ Quốc xa xôi chúng con hướng vọng về Tổ Đình Long Tuyền, Hội An đảnh lễ giác linh Thầy ba lạy, bái biệt Sư Phụ từ đây.  Khi nhận được tin Thầy viên tịch từ Thầy Đồng Khâm, con bàng hoàng sững sốt, tai nghe mà như không nghe, không tin vào đôi tai của mình. Đại sư huynh Giải Trọng mới vừa ra đi, nấm mộ còn chưa khô, nhang khói chưa tàn, thương nhớ chưa kịp nguôi, giờ lại đến lượt Sư Phụ. Cõi lòng chúng con làm sao không tan nát cho được, mới hơn có ba tháng mà chúng con phải chịu tới hai cái tang lớn, còn nỗi đau buồn nào hơn. Thầy ơi! Dẫu biết cuộc đờivô thường, có hợp ắt phải có tan, nhưng trong con nỗi ngậm ngùi cứ vây quanh, đầu óc thì trống vắng không viết được chữ nào, chỉ biết tụng kinh cầu nguyện cho Giác linh Sư Phụ sớm được Cao Đăng Phật Quốc.

 

Hôm tháng tư vừa rồi chúng con về viếng chùa, lạy Giác linh Đại sư huynh, đảnh lễ và hầu chuyện cùng Sư Phụ, thấy người vẫn còn khỏe mạnh, nói chuyện với con thường lập lại tới lui những gì mình nói, nhưng đó là bệnh của những vị lớn tuổi. Còn sư huynh Như Phẩm thì lo điều khiển thợ xây cất, nới rộng trai đường ra phía sau, để mai sau Thầy về với Phật cũng có nơi để thờ phụng, quý huynh đệ đã chu toàn lo lắng, tháp thờ cũng đã xây xong. Giờ đây người rũ bỏ tấm thân tứ đại, nhẹ bước vân du, chốn tổ Long Tuyền vắng bóng bậc ân sư. Cội tùng đã từng tỏa bóng che chở đàn con trước phong ba bão tố, làm chổ nương tựa vững chắc cho hàng Phật Tử. Bậc long tượng một thời hiên ngang tiến bước, vượt bao chướng duyên nghịch cảnh, vổ về chăm sóc hàng hậu học, tất cả bây chừ thiếu vắng trống trơn hụt hẫng, để lại cõi lòng chúng con niềm đau nỗi thương nhớ vô biên.

 

Ôi! Bóng thời gian đò chiều đưa tiển, cõi sắc không thắm đượm một màu tang, niềm hịu quanh chừ dạo quanh lối mộng, buổi tiễn đưa thắm đượm cõi hương lòng, người bước đi rũ sạch chốn bụi trần, nghe đâu đây cung đàn réo rắc phút biệt ly, cho ngần ấy mai sau còn thương tiếc, lời kinh khuya đượm cả một trời không.

 

Con còn nhớ hình ảnh đầu tiên đầy ấn tượng, đó là vào ngày 31 tháng 8 năm 1969 và cũng là lần đầu tiên con trông thấy được hình bóng của Thầy. Từ chùa Long Tuyền, Hội An, Thầy về Niệm Phật Đường Mỹ An ở Đại Lộc quê con, để làm lễ truyền Tam quy  Ngũ giới. Nơi đây cũng là ngôi nhà của phụ mẫu chúng con, năm vừa rồi để cho chùa Mỹ An tạm mượn, vì ngôi chùa chánh ở trên đồi cao, chính quyền lúc bấy giờ sử dụng để làm căn cứ quân sự nên cấm người dân lai vãng. Dù lúc đó con chỉ mới được mười một tuổi, nhưng con vẫn còn nhớ hình bóng uy nghiêm của Thầy ngồi trên chiếc xe Jeep, do một thầy lái. Phật Tử chúng con sắp thành hai hàng, đứng hai bên đường để cung đón Thầy, lễ quy y hôm đó có rất đông Phật Tử đến quy y, cứ mỗi lần con nghĩ đến Thầy, thì hình ảnh ban đầu đó trong con lại có dịp trở về.

 

Năm 1972 chị Hạnh Tịnh dẫn con đi xuất gia, dù là đệ tử của Thầy, nhưng khi xuất gia con lại về chùa Phước Lâm. Thầy Phước Lâm thỉnh thoảng hay về quê để thăm phụ mẫu của Ngài, và Ngài thường ghé lại nơi Niệm Phật Đường để thăm phụ mẫu của con, có lẽ thường gặp Ngài nên thấy gần gũi, con muốn xuống chùa Phước Lâm để tu là vậy.

 

Hai năm sau vào năm 1974 nhân dịp chùa Long Tuyền tổ chức an cư, và có giới đàn, con về chùa được Thầy cho phép nhập chúng tu học từ đó. Chùa Long Tuyền còn là Phật Học Viện Quảng Nam, Thầy vừa là viện trưởng, và cũng là giáo thọ dạy cho chúng con học, lúc đó có quý chú từ Nha Trang ra tu học đông lắm, có khoảng năm mươi Tăng sinh. Con còn nhớ Sư Phụ dạy bộ Phật Học Phổ Thông, hình bóng tôn nghiêm và những lời dạy bảo của Thầy vẫn khắc ghi trong lòng chúng con. Lúc đó Thầy hay đề cập đến Thái Hư Đại Sư, một bậc thầy lớn của nhiều thế hệ, chủ trương cải cách Phật Giáo, chỉnh trang giáo lý, chỉnh trang giáo chế, chỉnh trang giáo sản. Trong phòng của Thầy có tủ sách, con thấy có bộ sách của ngài Thái Hư Đại Sư có tới mấy cuốn thật dày. Thầy rất uy nghiêm, hành trì giới luật, mỗi lần nghe bước chân Thầy đi xuống, chúng con đều phải đứng dậy, lúc đó làm gì cũng đều ngưng lại.

 

Năm 1975 do sự chuyển biến của đất nưóc, Phật Học Viện đành phải giải tán, vì không đủ lương thực để lo cho chúng, quý chú trở về lại nơi chùa Thầy Tổ. Chùa của mình giờ chỉ còn lại có mấy thầy trò, Thầy, hai sư huynh Thầy Giải Trọng, Thầy Như Phẩm, chú Như Dũng, chú Như Tường và con, có chú Tâm Kinh y chỉ với Thầy, còn có thêm chú Đồng Phương xin ở lại nữa. Chừng đó Thầy trò nương tựa bên nhau, rau muối tương gạo sống qua ngày. Có hôm chùa hết gạo Thầy dẫn con ra ngoài phố mua gạo nợ tiền, rồi chở về chùa để chúng có cơm ăn. Tối nào Thầy cũng nằm nơi chiếc ghế ngoài hiên cho mát, mở đài BBC để nghe tin tức thời sự.

 

Với chủ trương “một ngày không làm là một ngày không ăn” của tổ Bách Trượng, nhờ chùa sẵn có đất đai mấy Thầy trò cùng nhau ra đồng canh tác, sống bằng kinh tế tự túc. Trong vườn thì Thầy trồng rau xà lách, mỗi khi ăn nhổ xà lách vào trộn với chút dầu tí muối, vậy mà ăn ngon chi lạ. Lúc không có gì ăn ngoài tô canh, Thầy vào phòng lấy bịch vị tinh (bột ngọt) chuyền xuống cho chúng con bỏ một tí vào, thế là hôm ấy ăn thật là ngon, lúc đó bột ngọt quí hiếm lắm. Thầy làm lụng vất vảcực khổ lắm, không đi cúng kiếng bao giờ, kinh tế chùa và lo cho chúng, tất cả đều đổ trên vai của Thầy.

 

Dù đi làm khổ cực nhưng mỗi bửa Thầy ăn cũng giống với chúng, cũng rau lang nấu canh, bầu ăn không hết thì phơi khô để dành, xào với chút dầu, với tương do chính tay Thầy tự làm, quanh đi quẩn lại ngày lại ngày, sáng trưa chiều cũng bấy nhiêu thứ. Đậu khuôn trở thành một thứ xa xí phẩm chỉ có ngày giổ Tổ chúng con mới thấy mặt mũi nó. Con còn nhớ những khi đi làm, đến nửa buổi làm đói bụng quá, Thầy đưa cho một ít tiền bảo chúng con đi mua bánh tráng về ăn. Lúc đó Thầy đâu có nhiều tiền mà đưa, chúng con chỉ mua được bánh tráng làm bằng bột sắn, chứ không đủ tiền để mua bánh tráng làm bằng bột gạo. Bánh tráng làm bằng bột sắn khi ăn có vị nhẩn nhẩn, dù vậy mấy Thầy trò cuốn bánh tráng với rau muống, chấm bằng nước tương do Thầy làm ra, thế mà ăn thật là ngon lành, con nhớ mãi mùi vị ấy đến tận hôm nay. Khi Thầy làm nước tương, làm gì có nhiều tiền để mua đậu nành chỉ mua một ít thôi, Thầy tự pha chế công thức, một đậu hai gạo, tức một ký đậu nành thì hai ký gạo. Nước tương Thầy làm ra chỉ thấy toàn gạo không thôi, còn đậu nành nó biến đi đâu mất tiêu, cực khổ như vậy nhưng mấy Thầy trò huynh đệ vẫn vui vẻ tu tập bên nhau.

 

Đầu năm 1976, nghe đâu trong Đại Tòng Lâm sắp mở khóa học, con xin Thầy vào đó để tu học, nhưng Thầy không cho và nói “chú vào trong Nam dễ hư lắm”, nhưng con vẫn cứ ra đi. Khoảng bốn giờ sáng con nhờ chú Như Dũng giữ hộ con chó mực để nó không sủa kẻo Thầy hay biết, rồi con nhờ chú Như Tường mở hộ cổng để con trốn Thầy đi. Viết những dòng nầy mà nước mắt con tuôn trào, như một lời sám hối muộn đến Thầy. Có lẽ trong mấy huynh đệ, con là người bướng bỉnh nhất và cũng là người đệ tử rời xa Thầy khi mới 17 tuổi.

 

Thầy ơi! giờ nầy Thầy nhẹ bước vân du, để lại cho chúng con niềm thương tiếc vô hạn, vì xa xôi cách trở không thể về bên Kim Quang Thầy cúi đầu đảnh lễ, con chỉ biết đốt nén hương lòng dâng lên Thầy, kính ngưỡng cầu Thầy mau trở lại cõi Ta Bà nầy, nơi có biết bao người mong chờ Thầy ra tay tế độ. Thầy ơi! nếu kiếp sau có duyên gặp lại con vẫn mong được làm đệ tử của Thầy.

 

Nam Mô Từ Lâm Tế Chánh Tông, đệ tứ thập thế, Long Tuyền Tổ Đình Phương Trượng, húy thượng Chơn hạ Phát, tự Long Tôn Hòa Thượng Giác Linh.

 

Khể thủ

Đệ tử Như Hùng

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1072)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1016)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1057)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1062)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1202)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 959)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 936)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1005)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1134)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1165)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 928)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1034)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 995)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1099)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1099)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1239)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1281)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1078)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1085)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1184)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1217)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1155)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1439)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1083)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1149)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1179)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1043)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1088)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1194)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1275)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1344)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1508)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1366)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1298)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1068)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1176)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1150)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1203)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1166)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1103)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1316)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1385)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1410)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1310)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1261)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1087)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1169)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1182)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1248)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant