Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Đi Xây Chín Bậc Phù Đồ

09 Tháng Sáu 201611:28(Xem: 10466)
Người Đi Xây Chín Bậc Phù Đồ

Người Đi xây chín Bậc Phù Đồ

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

rupert-neudeck
Bài phát biểu trong buổi lễ Tưởng Niệm và Tri Ân
Tiến sĩ Rupert Neudeck ngày 05.06.16 tại Chùa
Bảo Quang Hamburg. Nguyên Đạo Văn Công Tuấn.


Kính bạch chư Tôn Đức, kính thưa chư quan khách,

Thưa quý đồng hương, quý đạo hữu Phật tử.

Ngày 31.05.2016 vừa qua Ông Tiến sĩ Rupert Neudeck đã từ trần sau một ca mổ tim ở bệnh viện ở Köln, để lại bao nhiêu nỗi thương tiếc không những cho gia đình, cho bạn bè, cho cộng sự của ông mà còn cho cả cộng đồng người Việt tỵ nạn trên toàn thế giới. Thay mặt Chi Hội Phât Tử Hamburg và Vùng Phụ Cận, chúng tôi xin chân thành gởi lời chia buồn với bà Christel Neudeck cùng ba người con của ông.

Riêng trong tận đáy lòng những Phật Tử Việt Nam ở hải ngoại chúng ta, ông Tiến sĩ Neudeck có một chỗ đứng rất đặc biệt: Chính ông đã là người cùng chúng ta xây dựng nên những ngôi nhà tâm linh, những ngôi chùa, nơi chúng ta hôm nay cùng ngồi lại đây, để cùng nhau tưởng niệm và tri ân ông. Tại sao, tôi xin sẽ nói sau.

Trước tiên xin sơ lược vài nét về tiểu sử của ông.

Tiến sĩ Rupert Neudeck sinh ngày 14 .05.1939 ở Danzig-Langfuhr (nay thuộc lãnh thổ Ba Lan). Trong chiến tranh thế giới thứ hai, vào tháng giêng năm 1945, ông đã phải cùng mẹ và bốn anh chị em (3 anh em trai và 1 chị gái) chạy tỵ nạn về Đức. Lúc đó ông chỉ mới mới 6 tuổi. Theo dự định gia đình họ sẽ đáp chuyến tàu thủy mang tên Wilhelm Gustloff, nhổ neo từ Gotenhafen (bây giờ gọi là Gdynia thuộc Ba Lan) để về Đức. Chiếc tàu chở 10.582 người, trong đó có 8.800 hành khách dân sự, mà đa số là trẻ em. Ở giữa biển khơi, tàu Wilhelm Gustloff đã bị chiếc tàu ngầm của Hồng quân Sô Viết mang tên là S13 tấn công và đánh chìm. Tàu bị đắm và đã có 9.500 người bị chết đuối trên biển. Gia đình ông Neudeck vì đã đến trể nên may mắn không có mặt trên chuyến tàu ấy. Cũng có thể do sự kiện này mà vào những năm cuối thập niên 70, khi hay tin những người thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam lênh đênh trên biển đông ông đã hết sức vận động bạn bè, dân chúng và chính quyền giúp đỡ những thuyền nhân đang ngập lặn giữa sóng biển, sắp làm mồi cho cá.

Sau đó gia đình ông về được đến nước Đức và định cư tại thành phố Hagen. Tại đấy, sau khi xong bậc trung học, ông theo học tiếp đại học ngành Ngôn ngữVăn Minh Đức, rồi học Triết học, xã hội học và Thần học Công giáo ở Münster. Vào năm 1961 ông quyết định bỏ ngang chương trình học đại học ngoài đời và xin gia nhập Dòng Tên (SJ). Nhưng chỉ vài năm sau đó ông lại quyết định ra khỏi nhà Dòngtiếp tục học đại học và tốt nghiệp vào năm 1970. Đến năm 1972 ông trình luận án tiến sĩ triết học cũng tại đại học Müntser. Sau đó ông hành nghề phóng viên, biên tập viên cho các báo, các đài phát thanh có tiếng tại Đức, ví dụ như đài phát thanh quốc gia Deutschlandfunk.

Năm 1979, với sự giúp sức của của văn hào Heinrich Böll, nhà văn Đức từng đoạt giải Nobel văn chương, ông bà Neudeck và những thân hữu đã thành lập „Ủy ban Một con tàu cho Việt Nam“ để đi cứu hộ cho những chiếc thuyền nan nhỏ bé của người Việt Nam lênh đênh trên biển Đông. Đến năm 1982 Ủy Ban này đổi tên thành “Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e.V. - Ủy Ban Cap Anamur/Hiệp hội các Bác Sĩ Cấp cứu ” Những chiếc tàu của Ủy Ban Cap Anamur, đã cứu vớt tổng cộng  11.300 thuyền nhân, rồi đưa họ về bến an toàn.

Trong số chúng ta ngồi hôm nay ở đây có rất nhiều người đã mang ơn cứu mạng của Ủy Ban Cap Anamur, mà người cha đẻ sinh ra nó chính là Ông Tiến sĩ Neudeck. Thử tưởng tượng, những ngày lênh đênh vô vọng trên đại dương năm xưa, trước bao nhiêu nỗi cực khổ, chết đói, chết khát, chết vì hải tặc, số mạng tưởng đã ở trong tay thần chết, mà không có bàn tay thiên thần Cap Anamur ấy đưa ra cứu vớt, thì chắc rất nhiều người trong chúng ta hôm nay đã không còn ngồi đây mà có thể đã ngồi trên bàn thờ hương linh phía sau rồi. Ơn tái sinh ấy, không ngôn từ nào có thể nói hết được.

Thưa quý vị,

Cứu được một mạng người trước những khổ lụy tận cùng của trần gian này đã là việc vô cùng khó. Cứu 11.300 thuyền nhân tỵ nạn , tức hơn một vạn người đang quằn quại vô vọng giữa lòng đại dương mênh mông là một việc làm ít có người làm được.  Văn hóa Việt Nam ta có câu rằng: Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người. Như vậy ta có thể nói ở đây rằng, ông Rupert Neudeck và Ủy Ban Cap Anamur đã cứu giúp cho hơn vạn người, nghĩa là đã xây hơn cả vạn Bậc Phù Đồ rồi đấy !

Nhưng Bậc Phù Đồ là gì? Rất nhiều người chỉ nghe mà chưa rõ hết nghĩa của chữ này. Bậc Phù Đồ là một từ của nhà Phật, gốc từ tiếng Pali là Stupa, có nghĩa là „búi tóc“ do hình thù các tháp ở Ấn độ có chóp đỉnh giống như búi tóc (Stupa tại các nước Phật giáo Nam tông có hình vuông phía dưới đế, giữa có hình tròn và trên cùng có một đỉnh nhọn. Ý nghĩa là, đế vuông là những tấm cà sa xếp lại,  hình tròn là bình bát úp lại và trên đỉnh là hình chiếc gậy tích trượng, là ba vật tùy thân của một tu sĩ Phật giáo). Tàu phiên âm chữ Stupa là Phật Đà, đọc lên nghe như Phù Đồ. Chín Bậc Phù Đồ có thể hiểu là ngôi tháp chín tầng thường thấy trong khuôn viên chùa hay có khi cũng được hiểu: đó chính là những ngôi chùa, những ngôi già lam. Bởi vậy khi nãy tôi nói, ông Neudeck đã cùng chúng ta xây dựng các ngôi chùa ở hải ngoại, kể cả ngôi chùa Bảo Quang mà hôm nay chúng ta đang ngồi đây, là ý nghĩa đó. Xin hỏi: có phải đúng như vậy không?

Đó là chưa nói, gần hai mươi ngôi chùa ở nước Đức được thành lập ra từ những năm 70 đến nay cũng chỉ vì có sự hiện diện của những người tỵ nạn chúng ta ở đây. Nếu không có người tỵ nạn Việt Nam thì những ngôi chùa Việt Nam cũng không hiện diện ở Đức, ở Âu châu, hay trên khắp hải ngoại.

Nhưng, thưa quý vị, nếu chỉ nhìn hành trạng của ông tiến sĩ Neudeck trong phạm vi người Việt chúng ta thì quả thật chúng ta chưa hiểu hết về ông và Ủy Ban Cap Anamur cũng như những tổ chức khác do ông thành lập (ví dụ như Hội Mũ Xanh – Grünhelme e.V.). Họ đã có mặt và giúp đỡ những kẻ bần cùng, những người nghèo đói và bệnh tật ở trên 58 quốc gia trên thế giới. Vâng tôi không nói lộn và quý vị cũng không nghe lộn. Năm Mươi Tám quốc gia trên toàn lục địa. Họ đã có mặt từ Afghanistan, Bangladesch, Libanon tới Ấn Độ, Iran, Israel rồi đến Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam v.v…

Kính thưa quý vị,

Cá nhân tôi dù cũng đã từng đi vượt biên và cũng lần ra đến đại dương nhưng tiếc là không gặp được con tàu Cap Anamur của ông. Chúng tôi vô cùng khâm phục con người và nhân cách của Ông. Ông để lại cho chúng tôi nhiều bài học quý giá trong cuộc sống

- Bài học về lòng từ bi bác ái thương người vô điều kiện.

- Bài học về tâm không phân biệt chủng tộc tôn giáo màu da.

- Bài học: dám vượt qua khó khăn để hoàn thành chí nguyện cứu người cứu đời của mình (dù chính quyền Đức lúc ấy không chấp thuận nhận thuyền nhân Việt Nam, từng tạo khó khăn, và Ông đã phải gồng mình hứng chịu mọi khó khăn từ tài chánh đến tiếng tăm dư luận).

- Bài học về đức tính kiên trì nhẫn nại theo đuổi mục đích giúp người giúp đời đến phút cuối cùng của cuộc đời ông.

- Vân vânvân vân.

 rupert-neudeck-2

Kính thưa vong linh Ân nhân Rupert Neudeck.

Giờ ông đã ra đi. Đây là một cái tang chung cho cộng đồng người Việt tỵ nạn chúng tôi. Vâng, niềm đau này không phải chỉ đến với bà Christel Neudeck và ba người con,  mà là cả với cộng đồng người Việt tỵ nạn chúng tôi. Chúng tôi buồn lắm. Chúng tôi biết ơn ông lắm. Ông là vị Thiên sứ hay là bậc Bồ Tát giúp đời, mãn hạn trần gian rồi thanh thản quay gót đi về. Chắc ông cũng đã mãn nguyện lắm.

Cá nhân tôi tuy không có duyên may gần gũi nhưng cũng có vài lần thấy Ông trong các buổi lễ tại Troisdorf, tại Hamburg. Ông xuất hiện thật gần gũi, đơn giản và đầy thiện cảm với chúng tôi. Gần gũi đơn giản và bình yên như một cánh diều chắp cánh thảnh thơi bay trên không trong một buổi chiều hè thanh bình. Cũng vì lý do đó mà một Tượng Đài Thuyền Nhân đã được dựng lên tại bến cảng Hamburg, một địa điểm quan trọng bậc nhất của thành phố này. Buổi lễ Khánh Thành Tượng Đài vào ngày 12.09.2009 đã có những chính khách hàng đầu của nước Đức đến tham dự.

Giờ đây, ở tuổi 77 ông đã muốn ra đi, muốn rời bỏ tấm thân tứ đại tạm bợ này để đi về nơi mà ông từng muốn về, muốn tới. Hôm nay tiễn ông trong chuyến đi thật xa này, với tấm lòng biết ơn sâu sắc chúng tôi xin góp lời cầu nguyệncầu chúc ông mãi thong dong, an lạc nơi cõi vĩnh hằng.

 

Xin cám ơn tất cả quý vị đã lắng nghe.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

--

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn


rupert-neudeck-3

DER BUDDHA-TEMPEL-BAUMEISTER
 
Rede bei der Gedenkfeier anlässlich des Todes von Dr. Rupert Neudeck am 05.06.2016 in der Pagode Bảo Quang, Hamburg.
Tuan Van Cong

Am 31.05.2016 hat Herr Dr. Rupert Neudeck nach einer Herzoperation im Klinikum Köln die Welt verlassen und große Trauer nicht nur bei seiner Familie, seinen Freunden und Mitarbeitern, sondern auch bei der Gemeinschaft der vietnamesischen Flüchtlingen in der ganzen Welt hinterlassen. Im Namen des buddhistischen Vereins in Hamburg und Umgebung möchten wir an Frau Christel Neudeck und ihren drei Kindern unser aufrichtiges Beileid ausrichten.

Im Herzen der vietnamesischen Buddhisten im Ausland hat Herr Dr. Neudeck einen besonderen Platz genommen: Er war gemeinsam mit uns auch ein Bauherr der geistlichen Bauwerke, der buddhistischen Pagoden, wie der hier, wo wir gerade zusammen gekommen sind, um seines Todes zu gedenken und ihm zu danken. Ich werde im Folgenden die Gründe  dafür sagen.

Zuerst möchte ich jedoch kurz von seinem Lebenslauf erzählen.

Dr. Rupert Neudeck war am 14.05.1939 in Danzig-Langfur (jetzt im polnischen Gebiet) geboren. Im Januar 1945, noch während des zweiten Weltkriegs, musste er mit seiner Mutter und seinen vier Geschwistern (drei Brüder und eine Schwester) nach Deutschland flüchten. Er war damals gerade 6 Jahre alt. Seine Familie wollte eigentlich mit dem Schiff „Wilhelm Gustloff“, das den Hafen Goten (heißt jetzt Gdynia und gehört Polen) verließ, um nach Deutschland zu fahren. Auf dem Schiff waren 10.582 Passagieren, davon 8.800 zivile Fahrgäste. Ein Großteil davon waren Kinder. Auf dem offenen Meer wurde das Schiff jedoch von dem sowjetischen U-Boot S13 angegriffen und versenkt. Insgesamt waren 9.500 Passagieren  ertrunken. Die Neudecks Familie war zu spät gekommen und hatte deshalb glücklicherweise das Schiff verpasst. Dieses Ereignis könnte mit ein Grund gewesen sein, dass er mit aller Kraft seine Freunde, seine Mitbürger und Regierung mobilisierte, den vietnamesischen Boat People, die auf dem südchinesischen Meer von dem Ertrinken bedroht waren, zu helfen.

Seine Familie erreichte Deutschland und wurde in Hagen ansässig. Dort, nach dem Abitur, studierte er Germanistik, Philosophie, Soziologie und katholische Theologie in Münster. Im Jahr 1961 schloss er sich den Jesuiten an, verließ jedoch den Orden nach einigen Jahren und studierte weiter bis 1970. Im Jahr 1972 fertigte er seine Dissertation in Philosophie an der Universität Münster. Anschließend arbeitete er als freier Journalist für die großen Zeitschriften und Rundfunkanstalten in Deutschland; wie den staatlichen „Deutschlandfunk“.  

Mit der Unterstützung von dem Schriftsteller Heinrich Böll, deutscher Nobelpreisträger der Literatur, hat er 1979 mit seiner Frau und Freunden das „Komitee Ein Schiff für Vietnam“ gegründet, um die vietnamesischen Bootsflüchtlinge mit ihren winzigen Booten auf dem Ostpazifik zu retten. Das Komitee wurde im Jahr 1982 zu „Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e.V.“ geändert. Die Schiffe des Komitees Cap Anamur hatten insgesamt 11.300 vietnamesischen Boat People gerettet und sicher zum Hafen gebracht.

Viele von uns, die heute hier anwesend sind, sind als Geretteten dem Komitee Cap Anamur zum großen Dank verpflichtet. Wenn wir damals, als Hoffnungslosen auf dem Meer, kurz vor dem Verdürsten und Verhungern, als Opfer von Piraten an der Schwelle des Todes, nicht durch die Hand des Engels Cap Anamur gerettet würden, würden viele von uns heute nicht hier sitzen, sondern dort hinten sein, wo wir die Seelen der Verstorbenen verehren. Das Geschenk des neuen Lebens ist kaum in Worten zu fassen.

Ein vietnamesisches Sprichwort sagt: „Es ist wertvoller, einen Menschen zu retten, als einen neunstöckigen Stupa zu bauen“ 

Herr Rupert Neudeck und sein Komitee Cap Anamur haben 11.300 Menschen gerettet; sie haben also mindestens 11.300 Buddhastempel gebaut!

Stupa ist ein buddhistischer Begriff mit dem Ursprung aus der Sprache Pali und bedeutet „Haarknoten“, denn die Kuppelgewölbe der Tempel in Indien haben die Form der Haarknoten. Die Stupas von der buddhistischen Theravada-Schule haben eine quadratische Plattform als Basis, das halbkugelige Kuppelgewölbe, abgeschlossen mit einer Reliquienkammer und der Spitze. Die quadratische Basis steht für das zusammengefaltete Gewand, die Halbkugel für die umgedrehte Schale, und die Spitze für den Stab; es sind also die drei sichtbaren Merkmale eines buddhistischen Mönches). Die Chinesen haben den Begriff Stupa als „Phật Đà“ phonetisiert, die Vietnamesen nennen sie „Phù Đồ“. Neunstöckige Stupas können wir oft im Garten einer Buddhistischen Pagode sehen und können als Buddha-Tempel verstanden werden.

Wenn ich vorhin gesagt habe, dass Herr Neudeck  gemeinsam mit uns auch ein Bauherr der buddhistischen Pagoden im Ausland sei - Pagode Bảo Quang, wo wir gerade sind, wird auch dazu gezählt, dann ist es in diesem Sinn gemeint.

Seit Ende der 1970er bis heute sind 20 Pagoden in Deutschland durch die Anwesenheit vietnamesischer Flüchtlinge entstanden. Wenn wir nicht hier wären, würde es auch keine buddhistischen Pagoden in Deutschland, in Europa und auch überall außerhalb Vietnam geben.

Die Lebenswerke von Dr. Neudeck und die von ihm gegründeten Komitee Cap Anamur und Grünhelme e.V. beschränken sich jedoch nicht auf die Rettung von Vietnamesen. Sie waren in 58 Ländern, um den Armen und Kranken zu helfen. Ja, acht-und-fünf-zig-Länder in der ganzen Welt. Sie waren in Afghanistan, Bangladesch, Libanon, Indien, Iran, Israel, in der Türkei und Vietnam …

Sie sind deshalb der Grund der Gedenktafel am Hafen Hamburg, an deren feierlichen Einweihung am 12.09.2009 wichtige Politiker der Republik teilgenommen haben.

Er hat uns sehr viele große Lehre für das Leben gegeben:

- bedingungslose Nächstenliebe,

- keine Unterscheidung von Rassen , Religionen oder Hautfarben,

- Überwindung aller Schwierigkeiten, um das Ziel Menschenrettung zu erreichen (die damalige deutsche Regierung hat die Aufnahme der vietnamesischen Flüchtlinge anfänglich nicht zugestimmt. Es gab unterschiedliche Schwierigkeiten, finanzielle und öffentliche Art),

- Ausdauer und Geduld, um das Ziel, Menschen zu helfen, bis zum letzten Minuten des Lebens zu verfolgen.

- Und vieles mehr.

 rupert-neudeck-2

 

 

Sehr geehrter Dr. Rupert Neudeck,

Jetzt haben Sie uns verlassen. Es ist ein Trauerfall für alle vietnamesischen Flüchtlinge. Der Schmerz trifft nicht nur Ihre Frau Christel und Ihre drei Kinder, sondern auch uns, die vietnamesischen Flüchtlinge. Wir sind Ihnen zum großen Dank verpflichtet. Sie sind ein Himmelsbote, ein Bodhisattva für die Menschheit. Sie haben jetzt Ihre Mission auf der Erde erfüllt und kehren friedlich zurück. Sie sind sicherlich mit Ihrem Werk zufrieden.

Ich selbst habe leider nicht das Glück, in Ihrer Nähe zu sein, Sie aber schon öfter bei den Feiern in Troisdorf oder Hamburg gesehen. Sie waren immer sehr menschennah, sehr einfach; einfach und sanft wie ein Drachen, der an einem lauen Nachmittag in der Luft segelt.

Im Alter von 77 haben Sie diese Welt verlassen, um dorthin zu gehen, wo Sie schon immer hin wollten. Wir wünschen Ihnen Frieden und Freude in diesem ewigen Ort.

 

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

Ins Deutsche übersetzt: JB Lê Văn Hồng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 13127)
Từ cuối tháng 7 âm lịch, hoa ngô đồng bắt đầu rộ đỏ trên toàn đảo, làm cho Cù Lao Chàm thêm một vẻ đẹp vừa sinh động lại vườn huyền hoặc.
(Xem: 12037)
Biết cảm thông và chia sẻ niềm an vui với huynh đệ, lắng nghe và chấp nhận yếu kém của người khác để cùng nhau tinh tiến tu học, đó là những hạt giống thiện lành.
(Xem: 11589)
Đầu đuôi câu chuyện xảy ra tại Ấn độ, và đúng thật là như thế! Vào khoảng đầu kỷ nguyên Thiên Chúa giáo, người ta mới thấy bắt đầu xuất hiện các kinh sách Phật giáo...
(Xem: 11326)
Theo các các ấn bản lưu truyền tại Âu châu vào thời Trung cổ thì tại Ấn độ có một vị vua tên là Abener sinh được một hoàng tử kế nghiệp và đặt tên là Joasaph.
(Xem: 10631)
Mỗi chuyến đi là mỗi tầm nhìn được mở rộng. Mỗi chuyến đi giúp chị nhận thức rõ hơn bức tranh muôn màu của kiếp sống nhân sinh.. Chị có được những giây phút tĩnh lặng...
(Xem: 10015)
Bờ biển buổi sáng thật yên tĩnh. Tôi đi lần ra cồn cát ngay phía trước cổng chùa. Nước rút làm cho bờ cát thoai thoải trải dài một màu trắng bạc lấp lánh.
(Xem: 10409)
Dù gì thì đời sống tu hành của thầy cũng thật giản dị. Nơi thầy ở vẫn là mái am tranh đơn sơ, ăn uống thì đạm bạc, áo vải sờn vai mà vẫn thong dong tự tại với tháng ngày.
(Xem: 10761)
Quanh bờ suối, rải rác nhiều tảng đá lớn nhỏ với đủ hình thù tạo dáng lạ mắt gợi lên một phong cảnh trầm mặc u nhàn. Tuấn nhìn thấy màu y vàng của một vị sư...
(Xem: 10210)
Thời gian thấm thoắt qua nhanh, cuối cùng Ông tìm đến khu rừng Tuyết này để tịnh tu. Đạo mầu chưa chứng, nhưng Ông cũng tự tìm thấy niềm vui trong pháp thiền định.
(Xem: 11191)
Ấn tượng nhất vẫn là tượng Phật lộ thiên cao gần ba mươi mét, uy nghi giữa bốn bề lồng lộng mây trời gió núi. Tượng Phật đúc xi măng, trong ruột đổ đá xanh...
(Xem: 9821)
Ánh nắng chiều xuyên qua cửa sổ làm thầy thức giấc. Bước ra sân, thầy ngạc nhiên nhận ra cây cỏ trong vườn dịu dàng lan tỏa một sắc xuân.
(Xem: 10737)
Tâm tư cảm kích, nguồn cảm hứng dâng trào, nhà văn yên lặng suy nghĩ ra chiều tâm đắc. Ờ! Ta cũng là kẻ ăn mày nương nhờ cửa Phật.
(Xem: 10931)
Mấy năm sau này mẹ chị thích lui về sống cuộc đời tu niệm tại gia. Thế là chị cho xây một am thất ngay trong khu vườn cây xanh tĩnh lặng ở ngoại ô...
(Xem: 12411)
Thầy luôn ở bên cạnh, đôi mắt hiền từ nhìn con đầy tình thương ấm áp của người cha, miệng mỉm cười trao truyền sự an lạc từ tâm hồn tới tâm hồn.
(Xem: 12783)
Kính bạch thầy Quan Thế Âm. Thầy là vị Bồ tát có lòng đại từ, đại bi nên thầy có thể nghe mọi nỗi khổ đau của không chỉ nhân thế mà cả vạn loại chúng sinh trong sáu nẻo luân hồi.
(Xem: 11803)
Kính bạch thầy Di Lặc. Thầy có biết không, con đã ứng dụng thực hành giáo lý mà thầy Bổn sư Thích Ca Mâu Ni đã truyền dạy. Mỗi ngày con phải biết mỉm cười...
(Xem: 11514)
Nếu hành Bồ tát đạo thì bạn sẽ kiến tạo được bằng an cho mình - một trong vô vàn chúng sinh trong lục đạo. Khi ấy bạn sẽ có vốn liếng bằng an để hiến tặng cho người.
(Xem: 11280)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ biểu hiện khi tâm ta bị màn vô minh che lấp, bị chi phối bởi sự điều động của bản ngã tham sân si.
(Xem: 10005)
Sanh tử khứ lai chỉ là mộng huyễn. Làm thế nào khi rời trần thế mà lên được đài sen mới là thượng sách, mới là Phật tử chân chính...
(Xem: 11725)
Hãy im lặng để nhìn thì tôi tin bạn sẽ “ngộ” ra nhiều thông điệp sống mà cuộc đời trao ban cho mình.
(Xem: 10785)
Trời ở đây đã bắt đầu vào thu. Mỗi sớm mai khi mở cửa tôi vẫn được nhìn thấy mặt trời dần lên sau những cụm mây hồng.
(Xem: 10712)
Từ khi, tôi biết chú ý đến hơi thở và biết lắng nghe tiếng nói của con tim mình, tôi biết buông xả hơn, cười tươi hơn và biết thở đúng hơn.
(Xem: 12511)
Tôi chưa bao giờ thấy thầy tôi nổi giận, cho dù anh em chúng tôi có làm điều sai lầm. Thầy thường nhỏ nhẹ, nhắc nhở và dạy thật cặn kẽ mỗi khi chúng tôi phạm lỗi.
(Xem: 16223)
Chùa Thiện Minh, nơi tổ chức Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư - Ngày Về Nguồn lần thứ 5, do Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt là trưởng ban... Thích Nguyên Siêu
(Xem: 11978)
Ðạo Phật hiện diện êm đềm quanh ta. Trong một thời gian dài, cứ chặng năm giờ sáng là nằm trong giường tôi nghe tiếng gõ mõ tụng kinh...
(Xem: 11743)
Nắng trong vườn thơm hương hoa bưởi, nắng gió ngạt ngào quyện bát ngát cõi tâm hương. Giới, Định, Tuệ là đây; Giải Thoát, Giải Thoát Tri Kiến cũng là đây.
(Xem: 10317)
Sư vốn con nhà trưởng giả ở Kinh Thành. Xuất gia từ nhỏ. Cốt cách tài hoa, nên càng lớn càng tự thị. Sở học rộng rãi.
(Xem: 10448)
Theo luật nhân quả, tất cả mọi sự, mọi vật, không chừa một việc gì, đều xảy ra từ một hay nhiều nguyên nhân nào đó. Như người trồng cam thì sẽ được cam.
(Xem: 10385)
Ông là một “người lính già” đặc biệt, một “người lính già” bất tử, vì ông cũng đồng thời là một thiền sư, vì ông đã ngộ đạo với Thượng sĩ Huệ Trung trước đó.
(Xem: 11555)
Những ngày trời nắng, khi những giếng khác quanh đó đã cạn, giếng nước xóm tôi cũng chỉ hơi vơi đi một chút, rồi những cơn mưa bất chợt lại làm đầy lên.
(Xem: 12055)
Không biết tự bao giờ những câu nói dân dã quen thuộc của ba, của mẹ, của bà con hàng xóm vất vả tảo tần với cây lúa của khoai đã in sâu trong suy nghĩtâm thức của tôi
(Xem: 11637)
Việc Sầm Hoa dịch từ “tự viện” thành “chùa”, và lược dịch “Ấn Độ giáo cao cấp tăng lữ” thành “cao tăng” tức là đã có chủ ý nhắm đến đạo Phật, muốn bôi nhọ chư Tăng.
(Xem: 10516)
Những khám phá độc đáo và những lời dạy về sự giác ngộ đã trở nên gần gũi hơn qua việc thực hành tôn giáo, với khái niệm lúc ban đầu về Phật giáo đang tiến triển dần...
(Xem: 11074)
Con đường mà mỗi người phải trải qua quả thật đầy rẫy những chướng ngại, hoang mang và lầm lẫn. Vì thế phải cần có một vị thầy đích thật...
(Xem: 12018)
Trí Hải đã vượt suối trèo non tìm lên chùa Từ Vân trên núi Ngọc Trảng, phía Tây núi Kim Phụng, đến gặp thiền sư Trúc Lâm...
(Xem: 10227)
Diễm phúc sao trong phút cuối trong một đời kẻ vô nghì như tôi với quá nhiều tội lỗi lại được Hoà Thượng trụ trì ngồi niệm hồng danh Phật tiếp dẫn.
(Xem: 11247)
Hạnh phúc của con người không đến từ sự thù hận, tức giận cho nên sự trang trải tình thương trong cuộc sống xã hội là điều cần thiết nhất để hóa giải sự xung đột.
(Xem: 10727)
Xin nhớ rằng: chính nhờ những trải nghiệm khổ đau chúng ta mới đánh giá đúng đắn và hiểu thấu giá trị đích thực của hạnh phúcan lạc...
(Xem: 10405)
Thường hay tự nhủ rằng: Mình không có được cái diễm phúc sanh nhằm thời có Phật, nhưng được nghe Pháp Phật; được gặp người bạn đồng tu và được làm thân người.
(Xem: 9926)
Thiện tâm không chấp nhận máu đổ để chiến thắng nên ăn chay, không giết hại muôn loài là giải nghiệp sát sanh.
(Xem: 11236)
Những năm trước, hai gốc tùng trước sân như hai đứa trẻ, dáng điệu miệt mài trong cơn gió hiu hắt của mùa thu. Quanh năm suốt tháng, không một lời qua lại...
(Xem: 10030)
Đức Phật không phải là quan tòa để phán xử và tự cho mình có quyền phép để đưa người này vào Thiên Đàng hay đẩy người kia xuống Hỏa Ngục.
(Xem: 10885)
Tôi hát cho mẹ bài Năm Uẩn Chẳng Là Ta phổ nhạc từ Bát Nhã Tâm Kinh. Mắt mẹ vẫn nhắm chặt, hơi thở lên xuống đều đặn.
(Xem: 12557)
Cuộc tu là một chiến trận, binh lực phải được vận dụng để đối phó với những gì thật sự là đối phương, chẳng để nhằm vào những khóm lau bụi cỏ để hái hoa bắt bướm.
(Xem: 10763)
Ðối với đạo Phật, cái chính là tinh thần từ bi bình đẳng. Từ bi bình đẳng là một trong những đặc điểm nổi bật và quan trọng nhất trong Phật Giáo.
(Xem: 11788)
Sự khác biệt của mọi vật là do nghiệp riêng của chúng, chứ bản chất chúng vẫn là Chân Như. Như sóng sanh khởi từ đại dương, biến thành một làn sóng di động...
(Xem: 11836)
Một chậu quỳnh hoa có nhiều nụ là tin tức được mọi người đón chờ. Chậu hoa được đặt gần bên chánh điện, món quà sang nhất của thiền viện...
(Xem: 10359)
Tháng 8, đất trời hân hoan chào đón những đợt nắng mới, nô nức và nồng nhiệt như cảnh đồng loại đang nô đùa ngoài bể xa.
(Xem: 10785)
Khi đời sống nội tâm của bạn được lành mạnh, sung túc thì cuộc sống bên ngoài cũng sẽ ảnh hưởng theo và ngày càng trở nên phong phú.
(Xem: 10429)
Thực ra, tên gọi và hình thức món chay sẽ không là gì nếu ta không quá xem trọng nó. Mọi vật sẽ trở nên bình thường như những món quà hương vị của cuộc sống...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant