Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Người Đi Xây Chín Bậc Phù Đồ

09 Tháng Sáu 201611:28(Xem: 10666)
Người Đi Xây Chín Bậc Phù Đồ

Người Đi xây chín Bậc Phù Đồ

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

rupert-neudeck
Bài phát biểu trong buổi lễ Tưởng Niệm và Tri Ân
Tiến sĩ Rupert Neudeck ngày 05.06.16 tại Chùa
Bảo Quang Hamburg. Nguyên Đạo Văn Công Tuấn.


Kính bạch chư Tôn Đức, kính thưa chư quan khách,

Thưa quý đồng hương, quý đạo hữu Phật tử.

Ngày 31.05.2016 vừa qua Ông Tiến sĩ Rupert Neudeck đã từ trần sau một ca mổ tim ở bệnh viện ở Köln, để lại bao nhiêu nỗi thương tiếc không những cho gia đình, cho bạn bè, cho cộng sự của ông mà còn cho cả cộng đồng người Việt tỵ nạn trên toàn thế giới. Thay mặt Chi Hội Phât Tử Hamburg và Vùng Phụ Cận, chúng tôi xin chân thành gởi lời chia buồn với bà Christel Neudeck cùng ba người con của ông.

Riêng trong tận đáy lòng những Phật Tử Việt Nam ở hải ngoại chúng ta, ông Tiến sĩ Neudeck có một chỗ đứng rất đặc biệt: Chính ông đã là người cùng chúng ta xây dựng nên những ngôi nhà tâm linh, những ngôi chùa, nơi chúng ta hôm nay cùng ngồi lại đây, để cùng nhau tưởng niệm và tri ân ông. Tại sao, tôi xin sẽ nói sau.

Trước tiên xin sơ lược vài nét về tiểu sử của ông.

Tiến sĩ Rupert Neudeck sinh ngày 14 .05.1939 ở Danzig-Langfuhr (nay thuộc lãnh thổ Ba Lan). Trong chiến tranh thế giới thứ hai, vào tháng giêng năm 1945, ông đã phải cùng mẹ và bốn anh chị em (3 anh em trai và 1 chị gái) chạy tỵ nạn về Đức. Lúc đó ông chỉ mới mới 6 tuổi. Theo dự định gia đình họ sẽ đáp chuyến tàu thủy mang tên Wilhelm Gustloff, nhổ neo từ Gotenhafen (bây giờ gọi là Gdynia thuộc Ba Lan) để về Đức. Chiếc tàu chở 10.582 người, trong đó có 8.800 hành khách dân sự, mà đa số là trẻ em. Ở giữa biển khơi, tàu Wilhelm Gustloff đã bị chiếc tàu ngầm của Hồng quân Sô Viết mang tên là S13 tấn công và đánh chìm. Tàu bị đắm và đã có 9.500 người bị chết đuối trên biển. Gia đình ông Neudeck vì đã đến trể nên may mắn không có mặt trên chuyến tàu ấy. Cũng có thể do sự kiện này mà vào những năm cuối thập niên 70, khi hay tin những người thuyền nhân tỵ nạn Việt Nam lênh đênh trên biển đông ông đã hết sức vận động bạn bè, dân chúng và chính quyền giúp đỡ những thuyền nhân đang ngập lặn giữa sóng biển, sắp làm mồi cho cá.

Sau đó gia đình ông về được đến nước Đức và định cư tại thành phố Hagen. Tại đấy, sau khi xong bậc trung học, ông theo học tiếp đại học ngành Ngôn ngữVăn Minh Đức, rồi học Triết học, xã hội học và Thần học Công giáo ở Münster. Vào năm 1961 ông quyết định bỏ ngang chương trình học đại học ngoài đời và xin gia nhập Dòng Tên (SJ). Nhưng chỉ vài năm sau đó ông lại quyết định ra khỏi nhà Dòngtiếp tục học đại học và tốt nghiệp vào năm 1970. Đến năm 1972 ông trình luận án tiến sĩ triết học cũng tại đại học Müntser. Sau đó ông hành nghề phóng viên, biên tập viên cho các báo, các đài phát thanh có tiếng tại Đức, ví dụ như đài phát thanh quốc gia Deutschlandfunk.

Năm 1979, với sự giúp sức của của văn hào Heinrich Böll, nhà văn Đức từng đoạt giải Nobel văn chương, ông bà Neudeck và những thân hữu đã thành lập „Ủy ban Một con tàu cho Việt Nam“ để đi cứu hộ cho những chiếc thuyền nan nhỏ bé của người Việt Nam lênh đênh trên biển Đông. Đến năm 1982 Ủy Ban này đổi tên thành “Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e.V. - Ủy Ban Cap Anamur/Hiệp hội các Bác Sĩ Cấp cứu ” Những chiếc tàu của Ủy Ban Cap Anamur, đã cứu vớt tổng cộng  11.300 thuyền nhân, rồi đưa họ về bến an toàn.

Trong số chúng ta ngồi hôm nay ở đây có rất nhiều người đã mang ơn cứu mạng của Ủy Ban Cap Anamur, mà người cha đẻ sinh ra nó chính là Ông Tiến sĩ Neudeck. Thử tưởng tượng, những ngày lênh đênh vô vọng trên đại dương năm xưa, trước bao nhiêu nỗi cực khổ, chết đói, chết khát, chết vì hải tặc, số mạng tưởng đã ở trong tay thần chết, mà không có bàn tay thiên thần Cap Anamur ấy đưa ra cứu vớt, thì chắc rất nhiều người trong chúng ta hôm nay đã không còn ngồi đây mà có thể đã ngồi trên bàn thờ hương linh phía sau rồi. Ơn tái sinh ấy, không ngôn từ nào có thể nói hết được.

Thưa quý vị,

Cứu được một mạng người trước những khổ lụy tận cùng của trần gian này đã là việc vô cùng khó. Cứu 11.300 thuyền nhân tỵ nạn , tức hơn một vạn người đang quằn quại vô vọng giữa lòng đại dương mênh mông là một việc làm ít có người làm được.  Văn hóa Việt Nam ta có câu rằng: Dù xây chín bậc phù đồ, không bằng làm phước cứu cho một người. Như vậy ta có thể nói ở đây rằng, ông Rupert Neudeck và Ủy Ban Cap Anamur đã cứu giúp cho hơn vạn người, nghĩa là đã xây hơn cả vạn Bậc Phù Đồ rồi đấy !

Nhưng Bậc Phù Đồ là gì? Rất nhiều người chỉ nghe mà chưa rõ hết nghĩa của chữ này. Bậc Phù Đồ là một từ của nhà Phật, gốc từ tiếng Pali là Stupa, có nghĩa là „búi tóc“ do hình thù các tháp ở Ấn độ có chóp đỉnh giống như búi tóc (Stupa tại các nước Phật giáo Nam tông có hình vuông phía dưới đế, giữa có hình tròn và trên cùng có một đỉnh nhọn. Ý nghĩa là, đế vuông là những tấm cà sa xếp lại,  hình tròn là bình bát úp lại và trên đỉnh là hình chiếc gậy tích trượng, là ba vật tùy thân của một tu sĩ Phật giáo). Tàu phiên âm chữ Stupa là Phật Đà, đọc lên nghe như Phù Đồ. Chín Bậc Phù Đồ có thể hiểu là ngôi tháp chín tầng thường thấy trong khuôn viên chùa hay có khi cũng được hiểu: đó chính là những ngôi chùa, những ngôi già lam. Bởi vậy khi nãy tôi nói, ông Neudeck đã cùng chúng ta xây dựng các ngôi chùa ở hải ngoại, kể cả ngôi chùa Bảo Quang mà hôm nay chúng ta đang ngồi đây, là ý nghĩa đó. Xin hỏi: có phải đúng như vậy không?

Đó là chưa nói, gần hai mươi ngôi chùa ở nước Đức được thành lập ra từ những năm 70 đến nay cũng chỉ vì có sự hiện diện của những người tỵ nạn chúng ta ở đây. Nếu không có người tỵ nạn Việt Nam thì những ngôi chùa Việt Nam cũng không hiện diện ở Đức, ở Âu châu, hay trên khắp hải ngoại.

Nhưng, thưa quý vị, nếu chỉ nhìn hành trạng của ông tiến sĩ Neudeck trong phạm vi người Việt chúng ta thì quả thật chúng ta chưa hiểu hết về ông và Ủy Ban Cap Anamur cũng như những tổ chức khác do ông thành lập (ví dụ như Hội Mũ Xanh – Grünhelme e.V.). Họ đã có mặt và giúp đỡ những kẻ bần cùng, những người nghèo đói và bệnh tật ở trên 58 quốc gia trên thế giới. Vâng tôi không nói lộn và quý vị cũng không nghe lộn. Năm Mươi Tám quốc gia trên toàn lục địa. Họ đã có mặt từ Afghanistan, Bangladesch, Libanon tới Ấn Độ, Iran, Israel rồi đến Thổ Nhĩ Kỳ, Việt Nam v.v…

Kính thưa quý vị,

Cá nhân tôi dù cũng đã từng đi vượt biên và cũng lần ra đến đại dương nhưng tiếc là không gặp được con tàu Cap Anamur của ông. Chúng tôi vô cùng khâm phục con người và nhân cách của Ông. Ông để lại cho chúng tôi nhiều bài học quý giá trong cuộc sống

- Bài học về lòng từ bi bác ái thương người vô điều kiện.

- Bài học về tâm không phân biệt chủng tộc tôn giáo màu da.

- Bài học: dám vượt qua khó khăn để hoàn thành chí nguyện cứu người cứu đời của mình (dù chính quyền Đức lúc ấy không chấp thuận nhận thuyền nhân Việt Nam, từng tạo khó khăn, và Ông đã phải gồng mình hứng chịu mọi khó khăn từ tài chánh đến tiếng tăm dư luận).

- Bài học về đức tính kiên trì nhẫn nại theo đuổi mục đích giúp người giúp đời đến phút cuối cùng của cuộc đời ông.

- Vân vânvân vân.

 rupert-neudeck-2

Kính thưa vong linh Ân nhân Rupert Neudeck.

Giờ ông đã ra đi. Đây là một cái tang chung cho cộng đồng người Việt tỵ nạn chúng tôi. Vâng, niềm đau này không phải chỉ đến với bà Christel Neudeck và ba người con,  mà là cả với cộng đồng người Việt tỵ nạn chúng tôi. Chúng tôi buồn lắm. Chúng tôi biết ơn ông lắm. Ông là vị Thiên sứ hay là bậc Bồ Tát giúp đời, mãn hạn trần gian rồi thanh thản quay gót đi về. Chắc ông cũng đã mãn nguyện lắm.

Cá nhân tôi tuy không có duyên may gần gũi nhưng cũng có vài lần thấy Ông trong các buổi lễ tại Troisdorf, tại Hamburg. Ông xuất hiện thật gần gũi, đơn giản và đầy thiện cảm với chúng tôi. Gần gũi đơn giản và bình yên như một cánh diều chắp cánh thảnh thơi bay trên không trong một buổi chiều hè thanh bình. Cũng vì lý do đó mà một Tượng Đài Thuyền Nhân đã được dựng lên tại bến cảng Hamburg, một địa điểm quan trọng bậc nhất của thành phố này. Buổi lễ Khánh Thành Tượng Đài vào ngày 12.09.2009 đã có những chính khách hàng đầu của nước Đức đến tham dự.

Giờ đây, ở tuổi 77 ông đã muốn ra đi, muốn rời bỏ tấm thân tứ đại tạm bợ này để đi về nơi mà ông từng muốn về, muốn tới. Hôm nay tiễn ông trong chuyến đi thật xa này, với tấm lòng biết ơn sâu sắc chúng tôi xin góp lời cầu nguyệncầu chúc ông mãi thong dong, an lạc nơi cõi vĩnh hằng.

 

Xin cám ơn tất cả quý vị đã lắng nghe.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

--

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn


rupert-neudeck-3

DER BUDDHA-TEMPEL-BAUMEISTER
 
Rede bei der Gedenkfeier anlässlich des Todes von Dr. Rupert Neudeck am 05.06.2016 in der Pagode Bảo Quang, Hamburg.
Tuan Van Cong

Am 31.05.2016 hat Herr Dr. Rupert Neudeck nach einer Herzoperation im Klinikum Köln die Welt verlassen und große Trauer nicht nur bei seiner Familie, seinen Freunden und Mitarbeitern, sondern auch bei der Gemeinschaft der vietnamesischen Flüchtlingen in der ganzen Welt hinterlassen. Im Namen des buddhistischen Vereins in Hamburg und Umgebung möchten wir an Frau Christel Neudeck und ihren drei Kindern unser aufrichtiges Beileid ausrichten.

Im Herzen der vietnamesischen Buddhisten im Ausland hat Herr Dr. Neudeck einen besonderen Platz genommen: Er war gemeinsam mit uns auch ein Bauherr der geistlichen Bauwerke, der buddhistischen Pagoden, wie der hier, wo wir gerade zusammen gekommen sind, um seines Todes zu gedenken und ihm zu danken. Ich werde im Folgenden die Gründe  dafür sagen.

Zuerst möchte ich jedoch kurz von seinem Lebenslauf erzählen.

Dr. Rupert Neudeck war am 14.05.1939 in Danzig-Langfur (jetzt im polnischen Gebiet) geboren. Im Januar 1945, noch während des zweiten Weltkriegs, musste er mit seiner Mutter und seinen vier Geschwistern (drei Brüder und eine Schwester) nach Deutschland flüchten. Er war damals gerade 6 Jahre alt. Seine Familie wollte eigentlich mit dem Schiff „Wilhelm Gustloff“, das den Hafen Goten (heißt jetzt Gdynia und gehört Polen) verließ, um nach Deutschland zu fahren. Auf dem Schiff waren 10.582 Passagieren, davon 8.800 zivile Fahrgäste. Ein Großteil davon waren Kinder. Auf dem offenen Meer wurde das Schiff jedoch von dem sowjetischen U-Boot S13 angegriffen und versenkt. Insgesamt waren 9.500 Passagieren  ertrunken. Die Neudecks Familie war zu spät gekommen und hatte deshalb glücklicherweise das Schiff verpasst. Dieses Ereignis könnte mit ein Grund gewesen sein, dass er mit aller Kraft seine Freunde, seine Mitbürger und Regierung mobilisierte, den vietnamesischen Boat People, die auf dem südchinesischen Meer von dem Ertrinken bedroht waren, zu helfen.

Seine Familie erreichte Deutschland und wurde in Hagen ansässig. Dort, nach dem Abitur, studierte er Germanistik, Philosophie, Soziologie und katholische Theologie in Münster. Im Jahr 1961 schloss er sich den Jesuiten an, verließ jedoch den Orden nach einigen Jahren und studierte weiter bis 1970. Im Jahr 1972 fertigte er seine Dissertation in Philosophie an der Universität Münster. Anschließend arbeitete er als freier Journalist für die großen Zeitschriften und Rundfunkanstalten in Deutschland; wie den staatlichen „Deutschlandfunk“.  

Mit der Unterstützung von dem Schriftsteller Heinrich Böll, deutscher Nobelpreisträger der Literatur, hat er 1979 mit seiner Frau und Freunden das „Komitee Ein Schiff für Vietnam“ gegründet, um die vietnamesischen Bootsflüchtlinge mit ihren winzigen Booten auf dem Ostpazifik zu retten. Das Komitee wurde im Jahr 1982 zu „Komitee Cap Anamur/Deutsche Notärzte e.V.“ geändert. Die Schiffe des Komitees Cap Anamur hatten insgesamt 11.300 vietnamesischen Boat People gerettet und sicher zum Hafen gebracht.

Viele von uns, die heute hier anwesend sind, sind als Geretteten dem Komitee Cap Anamur zum großen Dank verpflichtet. Wenn wir damals, als Hoffnungslosen auf dem Meer, kurz vor dem Verdürsten und Verhungern, als Opfer von Piraten an der Schwelle des Todes, nicht durch die Hand des Engels Cap Anamur gerettet würden, würden viele von uns heute nicht hier sitzen, sondern dort hinten sein, wo wir die Seelen der Verstorbenen verehren. Das Geschenk des neuen Lebens ist kaum in Worten zu fassen.

Ein vietnamesisches Sprichwort sagt: „Es ist wertvoller, einen Menschen zu retten, als einen neunstöckigen Stupa zu bauen“ 

Herr Rupert Neudeck und sein Komitee Cap Anamur haben 11.300 Menschen gerettet; sie haben also mindestens 11.300 Buddhastempel gebaut!

Stupa ist ein buddhistischer Begriff mit dem Ursprung aus der Sprache Pali und bedeutet „Haarknoten“, denn die Kuppelgewölbe der Tempel in Indien haben die Form der Haarknoten. Die Stupas von der buddhistischen Theravada-Schule haben eine quadratische Plattform als Basis, das halbkugelige Kuppelgewölbe, abgeschlossen mit einer Reliquienkammer und der Spitze. Die quadratische Basis steht für das zusammengefaltete Gewand, die Halbkugel für die umgedrehte Schale, und die Spitze für den Stab; es sind also die drei sichtbaren Merkmale eines buddhistischen Mönches). Die Chinesen haben den Begriff Stupa als „Phật Đà“ phonetisiert, die Vietnamesen nennen sie „Phù Đồ“. Neunstöckige Stupas können wir oft im Garten einer Buddhistischen Pagode sehen und können als Buddha-Tempel verstanden werden.

Wenn ich vorhin gesagt habe, dass Herr Neudeck  gemeinsam mit uns auch ein Bauherr der buddhistischen Pagoden im Ausland sei - Pagode Bảo Quang, wo wir gerade sind, wird auch dazu gezählt, dann ist es in diesem Sinn gemeint.

Seit Ende der 1970er bis heute sind 20 Pagoden in Deutschland durch die Anwesenheit vietnamesischer Flüchtlinge entstanden. Wenn wir nicht hier wären, würde es auch keine buddhistischen Pagoden in Deutschland, in Europa und auch überall außerhalb Vietnam geben.

Die Lebenswerke von Dr. Neudeck und die von ihm gegründeten Komitee Cap Anamur und Grünhelme e.V. beschränken sich jedoch nicht auf die Rettung von Vietnamesen. Sie waren in 58 Ländern, um den Armen und Kranken zu helfen. Ja, acht-und-fünf-zig-Länder in der ganzen Welt. Sie waren in Afghanistan, Bangladesch, Libanon, Indien, Iran, Israel, in der Türkei und Vietnam …

Sie sind deshalb der Grund der Gedenktafel am Hafen Hamburg, an deren feierlichen Einweihung am 12.09.2009 wichtige Politiker der Republik teilgenommen haben.

Er hat uns sehr viele große Lehre für das Leben gegeben:

- bedingungslose Nächstenliebe,

- keine Unterscheidung von Rassen , Religionen oder Hautfarben,

- Überwindung aller Schwierigkeiten, um das Ziel Menschenrettung zu erreichen (die damalige deutsche Regierung hat die Aufnahme der vietnamesischen Flüchtlinge anfänglich nicht zugestimmt. Es gab unterschiedliche Schwierigkeiten, finanzielle und öffentliche Art),

- Ausdauer und Geduld, um das Ziel, Menschen zu helfen, bis zum letzten Minuten des Lebens zu verfolgen.

- Und vieles mehr.

 rupert-neudeck-2

 

 

Sehr geehrter Dr. Rupert Neudeck,

Jetzt haben Sie uns verlassen. Es ist ein Trauerfall für alle vietnamesischen Flüchtlinge. Der Schmerz trifft nicht nur Ihre Frau Christel und Ihre drei Kinder, sondern auch uns, die vietnamesischen Flüchtlinge. Wir sind Ihnen zum großen Dank verpflichtet. Sie sind ein Himmelsbote, ein Bodhisattva für die Menschheit. Sie haben jetzt Ihre Mission auf der Erde erfüllt und kehren friedlich zurück. Sie sind sicherlich mit Ihrem Werk zufrieden.

Ich selbst habe leider nicht das Glück, in Ihrer Nähe zu sein, Sie aber schon öfter bei den Feiern in Troisdorf oder Hamburg gesehen. Sie waren immer sehr menschennah, sehr einfach; einfach und sanft wie ein Drachen, der an einem lauen Nachmittag in der Luft segelt.

Im Alter von 77 haben Sie diese Welt verlassen, um dorthin zu gehen, wo Sie schon immer hin wollten. Wir wünschen Ihnen Frieden und Freude in diesem ewigen Ort.

 

Nguyên Đạo Văn Công Tuấn

Ins Deutsche übersetzt: JB Lê Văn Hồng

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2064)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2212)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1711)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2020)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1738)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1721)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1893)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1905)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1557)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1730)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2070)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1823)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2385)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1714)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1715)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1673)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2122)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1946)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2086)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1628)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2244)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1594)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1758)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1823)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1668)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2402)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2118)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2067)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1868)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2218)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1792)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1916)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2148)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1680)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1936)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1932)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2148)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1925)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1766)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1749)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1756)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1865)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2157)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1709)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1683)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2248)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1774)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2349)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant