Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cây Niềm Tin, Khởi Động Cơ, Khuyến Khích Tự Tâm

11 Tháng Sáu 201611:02(Xem: 8087)
Cây Niềm Tin, Khởi Động Cơ, Khuyến Khích Tự Tâm

CÂY NIỀM TIN, KHỞI ĐỘNG CƠ, KHUYẾN KHÍCH TỰ TÂM

Đức Đạt Lai Lạt Ma

La Sơn Phúc Cường

Cây Niềm Tin, Khởi Động Cơ, Khuyến Khích Tự Tâm


Tsuglagkhang, chính điện với hơn 10 ngàn thính chúng tham dự buổi giảng pháp trong ba ngày của đức Đạt lai Lạt ma. Hơn 2500 học sinh tiểu học và Trung học của TCVs và các học sinh lớp 10 tới lớp 12 tại Gopalpur, Suja, Selakui và Chauntra. Ngoài ra còn có 600 sinh viên đại học, xấp xỉ hơn 2 ngàn thính chúng quôc tế từ 66 nước và 5 ngàn thành viên người Tạng khác.

Ngài cảm thấy hoan hỷ khi sau nhiều thế kỷ, biện luận, triết học là những môn học vẫn được trì giữ tại các tự viện, và được các học sinh, sinh viên và hàng tại gia thực hành. Các môn học như toán học ít có ảnh hưởng tới sự phát triển nội tâm, trong khi nếu chúng ta tu học những lời đức Phật dạy, chúng ta chắc chắn sẽ có sự chuyển hóa dòng tâm mình. Ngài dạy rằng đã từng có những bài tập biện luận trong các trường học cho học sinh, sinh viên trong những ngày đầu rời xa đất nước, nhưng sau đó các trường đã không duy trì được. Những năm gần đây truyền thống này đang dần được phục hồi.

con người, chúng ta có một bộ não diệu kỳ và một trí tuệ giúp ta khám phá và thấu hiểu về sự vận hành của vạn vật. Nhưng ngài dạy rằng, “Điều quan trọng là phải biết sử dụng trí tuệ của mình cho những mục đích thiện lành. Chúng ta có hơn 100 tập Kangyur và hơn 220 tập Tengyur. Kangyur là những lời dạy của đức Phậtchúng ta thấy được sự trình bày các vấn đề một cách rất lô-gic, chặt chẽ với ý nghĩa rõ ràng. Trên hết đức Phật là bậc thầy tâm linh duy nhất khích lệ các đệ tử của mình khảo sát, suy xét những lời dạy của ngài hơn là chỉ chấp nhận trên lý nghĩa bề mặt.

Tiếp đến các luận sư như Trần NaPháp Xứng luận giảng về lô-gic và Nhận thức luận. Các kinh văn đã được chuyển dịch sang tiếng Tạng và ngày nay vẫn được tu học, tranh biện, trong khi đó nhiều bộ luận chưa được dịch sáng tiếng Hán. Điều quan trọng nhất là phải đọc, thấu hiểu lý nghĩa của kinh băn. Cũng giống như chẳng có ý nghĩa gì khi có một cuốn sách nấu ăn tại nhà nhưng chỉ giữ sách trên giá sách, sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu chỉ kính lễ các kinh văn này khi bày biện trên chính điện mà không nỗ lực tu học để thấu hiểu. 

Ngày nay các nguyên tắc đạo đức cơ bản dường như rất thiếu vắng trong xã hội, điều này ảnh hưởng tiêu cực tới mỗi cá nhân, gia đìnhquốc gia. Ngài lưu ý rằng thông điệp bản chất của tất cả truyền thống tôn giáophụng sự tha nhân, dù cho là Công giáo, Islam, Hindu hay Do thái giáo, mỗi tôn giáo đều có những hành giả mẫu mực và trung thực. Một trái tim nồng ấm không chỉ tốt lành cho sức khỏe mà còn tốt lành cho cả xã hội nữa. Rất cần thiết phải thấu hiểu các lợi ích của những nguyên lý đạo đứctác hại của một đời sống thiếu kỷ luật. Phật giáo với cái nhìn hiện thực rất gần với khoa học và giúp mang lại các giải pháp đối trị những phiền não, có lợi ích to lớn cho thế giới.

Nhiều phát minh khoa học đã chỉ ra rằng bản chất căn bản của con ngườitừ bi, dựa trên đó chúng tahy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể thay đổi bản thân và có thể hy vọng tạo ra một thế giới nhân từ hơn. Nhưng cũng rất cần một cách tiếp cận toàn diện và phổ quát hơn để giáo dục cho con người về đức hạnh, trái tim chứ không chỉ thuần túytri thức. Đây vẫn là những năm đầu của thế kỷ 21, nhưng tôi tin tưởng rằng nếu chúng ta nỗ lực ngay từ lúc này chúng ta có thể mong chờ những thay đổi tích cực trên thế giới trong tương lại. Tôi thấy được khích lệ rất nhiều khi nghe trên BBC rằng có một số lượng lớn con người ngày nay đang xem mình là công dân toàn cầu.”

Ngài nhắc tới thời khắc đức Phật ngay sau khi giác ngộ, ngài đã băn khoăn không có một ai sẽ thấu hiểu những giáo pháp thâm diệulợi lạc của ngài. Nhưng sau khi chư thiên thỉnh cầu ngài truyền trao giáo pháp, ngài đã truyền trao cho năm anh em ông Kiều Trần Như và bốn người bạn, luận giảng giáo pháp Tứ Diệu Đế cho họ. Ngài đã chỉ ra rằng những nhân của khổ đau có thể tận trừ và nếu mỗi người có thể tận trừ được các nhân này thì họ sẽ có hạnh phúc và niềm an lạc mãi mãi. Ngài dạy rằng:

“Nếu quý vị không muốn khổ đau thì quý vị phải tận trừ những nhân gây nên chúng. Lý do chính là nghiệp và các phiền não, và căn nguyên nằm ở vô minh. Bản chất của tâm là quang minhtỉnh giác. Vô minh không phải là bản chất của tâm; nó mong manh, tạm bợ và có thể bị tận trừ. Hoàn toànthể diệt trừ được các phiền não trong tâm mỗi người và để thành tựu được, mỗi người phải biết rèn luyện dựa trên tam học Giới-định-tuệ.


Ngài nhắc tới 3 lần đức Phật chuyển Pháp luân. Ngài chỉ ra rằng trong lần chuyển Pháp luân thứ nhất, ngài đã truyền giáo pháp Tứ Diệu đế, trong lần thứ hai, ngài truyền trao các giáo pháp Trí tuệ Bát nhã, làm sáng tỏ bản chất thực của Diệt đế. Lần chuyển pháp luân thứ ba, ngài dạy sâu rộng hơn về Đạo đếbản chất của tâm.

Liên quan tới Cây Niềm tin, khởi phát tự tâm, bản kinh văn mà ngài sẽ truyền dạy, ngài dạy rằng bản kinh văn này bắt nguồn từ 16 Giọt Kadam, một giáo pháp đặc biệt bắt đầu từ ngài Atisha, Dromtonpa, Ngok Legpai Sherab, Nagtso Lotsawa and Geshe Kawa at Yerpa Lhari Nyingpo. Ngài Ngok đã thỉnh cầu Atisha truyền dạy về các đời trước của ngài Dromtonpa.

Ngài đã thụ nhận giáo pháp này từ Ling Rinpoche tại Tây Tạng và khi ngài thỉnh cầu Trijang Rinpoche truyền trao một lần nữa, Rinpoche đã nhập thất trước khi truyền pháp cho ngài. Bản kinh văn này được tụng đọc, truyền khẩu trong phần quán đỉnh. Đối với ngài, khi đã nhận giáo pháp ngài luôn bước vào nhập thất. Có năm đề mục được luận giảng trong bản kinh văn: Quy y nơi bậc thầy; quán tưởng tự thân là bản tôn; trì tụng chân ngôn; trưởng dưỡng Bồ đề tâmtrí tuệ tính không. Ngài cũng nhắc tới việc khi truyền trao quán đỉnh tại Nam Ấn vào mùa đông năm ngoái ở cuối giai đoạn giáo pháp Các Giai tầng Giác ngộ, ngài thấy cần thiết truyền trao bộ kinh văn vào thời điểm này.

Tiếp đến ngài đã tụng đọc và khẩu truyền các câu kệ trong bộ kinh văn. Sau khi quan sát tất cả thính chúng đều có bản copy bộ kinh văn, ngài đã khích lệ thính chúng hãy đọc kỹ bản kinh văn một lần nữa, suy tư về lý nghĩa mà ngài đã luận giảng và hãy cùng nhau thảo luận.

Ngày giảng pháp thứ hai. Ngài trích dẫn câu kệ tổng quát tất thảy giáo pháp của đức Phật:

Không làm những điều ác,
Làm tất thảy điều lành,
Hãy điều phục tâm mình.
Đó là lời Phật dạy.

Ngài dạy rằng các hành động bất thiện trên thực tế thuộc về phạm vi tương đối chứ không phải tuyệt đối. Ngài nhắc lại câu chuyện về vị thuyền trường, một trong các đời trước đây của đức Phật, đã phát hiện ra một kẻ tướng cướp lập kế hoạch giết hại 500 thương nhân trên thuyền của ông. Ông đã quyết rằng nếu ông giết người lầm lạc này thì không chỉ cứu sống được 499 người mà bản thân mình còn bảo vệ hắn khỏi kết quả kinh khủng của hành động sẽ giết hại họ. Trong trường hợp này, mặc dù đã lấy đi mang sống của một người nhưng có những kết quả tiêu cực, các hành động đó cũng tích lũy được công đức to lớn. Ngài cũng dạy thêm rằng: là Phật tử chúng ta nói rằng chúng ta không được làm những việc bất thiện bởi khi ấy ta sẽ nhận lấy quả là khổ đau, không chỉ đơn giảnđức Phật dạy như vậy là chúng ta không làm.

Với câu kệ kế tiếp, Hãy điều phục tâm mình. Ngài đặt câu hỏi, Tâm thức là gì? Và nhắc lại rằng có nhiều nhà khoa học đưa ra quan điểm cho rằng, tâm không là gì khác ngoài một chức năng của não. Các sinh viên lớp trẻ tuổi từ Upper TCV đã tham gia vào nhóm tranh biện về màu sắc. Tiếp theo nhóm nhiều tuổi hơn tranh biện về nhân và duyên. Ngài đã luận giải rằng, học hỏi về hai chân lý tạo nên một sự khác biệt nơi mỗi người và ngài đã luận giải về lòng trân trọng, tri ân tới lòng tốt của hết thảy chúng sinh. Không chỉ chúng ta thành tựu giác ngộ là nương vào lòng từ của các chúng sinh khác, mà tất cả mọi điều ta ân hưởng trong đời sống hiện giờ đều phụ thuộc vào lòng từ của chúng sinh. Ngài dạy rằng khi đã có được sự thấu hiểu đó sẽ giúp mỗi hành động, việc làm của ta đều hướng tới phụng sự mục đích của Pháp.

Một thành viên khác đã đứng lên tri ân ngài giúp họ hiểu được về giá trị nền văn hóa của dân tộc mình. Tiếp đến, thay mặt các sinh viên trong quá khứ, hiện tại và tương lai, họ cúng dường ngài bức thanka đức Phật Dược Sư.

Trở lại mối quan hệ giữa bộ não và dòng tâm thức, ngài đã dạy rằng vào cuối thế kỷ 20, một số nhà khoa học bắt đầu đặt vấn đề về dòng thức vi tế sẽ không thể tồn tại nếu tách rời bộ não. Ngài nhắc lại một câu hỏi ngài đã đặt lên cho các nhà khoa học, “Nếu tất cả các điều kiện để nhận thức diễn ra đều được đặt đúng vị trí, buồng trứng, trứng và tinh dịch đều trong điều kiện lý tưởng vậy thì thức có diễn ra một cách tự nhiên không?”. Câu trả lời của các nhà khoa học là không. Ngài đã luận giải rằng, các điều kiện xa hơn của thức có thể không hiện diện.

 Nhắc là quan kiến Trung đạo rằng, bản ngã thuần túy chỉ là định danh trên nền tảng hợp uẩn thân tâm, ngài đưa ra nhận định rằng: “Tại một hội đàm đa tôn giáo tổ chức tại Amritsar, một bậc thầy hàng đầu đạo Do thái từ Ajmer cho rằng tất cả tôn giáo đều đề cập tới ba vấn đề: cái tôi hay bản ngã là gì? Nó có điểm khởi đầu không? Và nó có điểm kết thúc không?

Xác quyết rằng không có một bản ngã tồn tại một cách cố hữu nào, Phật giáo cho rằng bản ngã phụ thuộc vào hợp thể thân tâm. Lý do là như vậy và bởi vì tâm không có điểm bắt đầu, nên bản ngã cũng không có điểm bắt đầu. Dù cho có điểm kết thúc hay là không thì phần lớn quan điểm của các trường phái Phật giáo đều cho là không.”

Trong khi nghỉ giữa các thời khóa, các sinh viên đã đặt lên ngài câu hỏi. Với những người đặt câu hỏi rằng quy y Tam bảo có phải là tiêu chuẩn duy nhất đối với một Phật tử, ngài trả lời rằng chấp nhận bốn Pháp ấn:

Tất cả những pháp duyên sinh đều vô thường
Tất cả các pháp nhiễm ô, bản chất đều khổ đau
Tất cả các pháp đều là tính khôngvô ngã.
Niết bàn là sự an bình thực sự.

Đây cũng là một thước đo khác để xác quyết có phải theo đạo Phật hay không.

Ngài chia sẻ với một sinh viên vừa đặt câu hỏi về bốn trường phái tư tưởng Phật giáo khi đức Phật truyền trao giáo pháp Tứ diệu đế, ngài có nhắc tới Tính không, nhưng Tính không được luận giảng sâu sắc hơn trong giáo pháp Trí tuệ Bát nhã trong lần chuyển pháp luân thứ hai. Sau đó, các đạo sư Nalanda đã luận giảng về Tính không thậm chí còn chi tiết hơn.

Tán thán một người sinh viên đã gửi lời tri ân ngài trước lời dạy thâm sâu vào năm ngoái, ngài dạy rằng bản thân mình thiền định hàng ngày về cái chết và vô thường, và phát hùng tâm giải thoát khỏi những phiền não khổ đau. Ngài cũng dạy về việc cần thiết phải trưởng dưỡng các phẩm chất thông tuệ, khiêm cung và nhân từ. Một sinh viên khác muốn biết bằng cách nào mà những thứ chúng ta học được trong đời này làm lợi ích đời kế tiếp. Ngài dạy rằng các hiểu biết ban đầu phụ thuộc vào những ngôn từ mà ta đọc hay lắng nghe, nhưng khi chúng ta suy tư về lý nghĩa và phát triển sự xác quyết thì những ảnh hưởngý nghĩa về những điều mình thấu hiểu thì sẽ in vào dòng tâm, thậm chí nếu ta không còn nhớ được những từ gốc ban đầu nữa.

Trở lại với việc tụng đọc bộ kinh văn Cây Niềm tin, khởi Động cơ của  Dromtonpa, ngài đã nhắc tới các phẩm hạnh của một vị thầy được ghi chép trong luật tạng, trong khi kinh điển liệt kê 10 phẩm hạnh. Ngài trích dẫn lời của đức Je Tsongkhapa dạy rằng, những ai mong nguyện điều phục dòng tâm của người khác trước hết phải điều phục dòng tâm của chính mình. Bồ đề tâm giác tỉnh rất là quan trọng nhưng những phẩm hạnh khác cũng phải được khai phát là dũng lựctín tâm. Ngài dạy rằng ngày mai ngài sẽ cử hành nghi thức khai phát tâm Bồ đề  và bởi phần lớn thính chúng là sinh viên, nên ngài cũng sẽ truyền trao quán đỉnh Văn thù, vị bồ tát tượng trưng cho trí tuệ.

“Cá nhân tôi có trải nghiệm riêng rằng nếu quý vị biết nương nơi đức Văn thù, thiền quán và trì tụng chân ngôn đức Văn thù, có thể giúp quý vị tăng trưởng trí tuệ và sự thông mình của mình.”

Ngày thứ ba, mùng 03 tháng 06, 2016- Trong nghi thức khai phát Bồ đề tâm, ngài trích dẫn lời của đức Di Lặc trong “Tràng phan Liễu ngộ Thực Chứng” đã định nghĩa Bồ đề tâmtâm nguyện chứng đạt giác ngộ vì lợi ích của hết thảy chúng sinh.

Bất kỳ khi nào chúng hữu tình nghĩ về bản thân mình, họ đều có một ý niệm về cái tôi trong mối quan hệ với thân, tâm, với gia đình và bạn bè họ. Con người có một ý niệm về cái tôi là người làm chủ hợp uẩn vật lý-tâm lý. Nhưng Phật Pháp lại không thừa nhận bất kỳ sự tồn tại  nào về cái tôi. Giáo pháp không thừa nhận bất kỳ một ý niệm nào về một cái tôi tồn tại một cách cố hữu.

Nếu quý vị chỉ suy nghĩ về bản thân mình, quý vị đã tự đặt mình vào một tình huống bất lợi. Nếu thay vào đó, quý vị rộng mở tâm hồn, trái tim và mở rộng sự quan tâm tới mọi người, quý vị sẽ tự do khỏi sợ hãibất an. Nếu quý vị biết nhìn tất thảy mọi hữu tình cũng đều giống như quý vị, họ đều không muốn khổ đau, thì tâm ngã ái sẽ được giảm thiểu. Hãy nhìn những người xung quanh mình, những người biết tôn trọngquan tâm tới mọi ngườixu hướng an lạc hơn những người chỉ biết tới lợi ích bản ngã của mình. Hãy nghĩ về những người biết chia sẻ những thứ họ có, bất kỳ những gì tốt lành họ có và so sánh với những người chỉ biết khư khư giữ cho mình, ai trong số họ hạnh phúcbình an hơn?

Là những người Tạng trẻ tuổi, hãy mở rộng lòng mình tới tha nhân, tới 6 triệu người dân tộc chúng ta, tới những người dân châu Á khác, tới toàn bộ dân số thế giới và tới hết thảy chúng hữu tình. Bồ đề tâmtâm nguyện chứng đạt giác ngộ vì lợi ích hết thảy chúng sinh. Bồ đề tâm bao gồm hai phần, tâm nguyện lợi ích mọi người, chúng sinhtâm nguyện chứng đạt giác ngộ.

Ngài chia sẻ về khoảng 40 tới 50 năm trước, ngài luôn tôn kính Bồ đề tâm nhưng thực sự thì khai triển trong thực tế không hoàn toàn dễ dàng. Sau đó vào năm 1967, ngài nhận được những luận giảng về Nhập Bồ tát hạnh từ Khunnu Lama Rinpoche, thầy đã khuyên ngài nên truyền dạy bộ luận này cho đại chúng. Dần dần sự quan tâm của ngài ngày một lớn hơn và ngài bắt đầu thấy Bồ đề tâm thực sự có thể tiếp cận được trên thực tế. Ngài Shantarakshita đã dạy rằng, những ai có trí tuệ sắc bén phát triển sự thấu hiểu Tính không trước hết và sau đó trưởng dưỡng Bồ đề tâm trên nền tảng đó, ngài dạy rằng ngài cũng thực hành tuần tự theo thứ lớp như vậy. Ngài dạy rằng, ngài đã suy tư về Tính không từ khi mới 20 tuổi, nhưng điều quan trọng chính là phải hợp nhất được Tính khôngTừ bi.

Trong suốt thời khóa khai phát Bồ đề tâm, ngài đã dừng lại kể cho đại chúng về tôn tượng Avalokiteshvara tại Tsuglagkhang. Ngài nhắc tới một giấc mơ mình đang nhiễu quanh một tôn tượng đức Avalokiteshvara tự hiện khởi. Tôn tượng đã cất lời mời ngài tới gần và khi ngài tới gần, tôn tượng đã trì tụng cúng dường ngài một câu kệ về giữ niềm tinh tấn hỷ lạc. Tôn tượng này sau đó bị phá hủy trong suốt cuộc Cách mạng văn hóa, nhưng một số mảnh vỡ của tượng đã được ngài mang theo. Những mảnh vỡ đã được đặt trong tôn tượng quan Âm Thập nhất diện tại chính điện ngày nay.

 Tiếp đến ngài khẩu truyền chân ngôn Văn Thù, quán đỉnh bắt nguồn từ ngài Rinjung Gyatsa, một tập nghi quỹ và các giới nguyện từ ngài Panchen Rinpoche đời thứ IV (1781-1854). Tiếp đến ngài khẩu truyền các câu kệ trong “Cây Niềm tin, khởi Động cơ” của ngài Dromtonpa.

Ngài nhắc tới bậc trưởng lão Amdo Lama trứ danh đã thỉnh mời ngài tới làng để truyền trao giáo pháp. Khi ngài đã trả lời rằng, ngài đã có tuổi để có thể đi giảng ở những nơi xa xôi như vậy, người dân làng đã trả lời rằng: Xin ngài hãy tới thậm chí chỉ tới ban sự gia trì thôi. Sau đó ngài đã tới và truyền ban giáo pháp rất thâm diệu và khá dài, cuối cùng ngài đã nói rằng: Bản thân không phải là loại bậc thầy chỉ biết đặt tôi bàn tay trần tục lên đầu người khác để ban cho họ sự giải thoát. Bản thân ngài chỉ mang lại những khai thị giúp họ thấu hiểu được giáo pháp của đức Phật thôi.”

La Sơn Phúc Cường trích dịch từ Dalailama.com
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1345)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
(Xem: 1315)
Nhiều Thiền sư tiếp cận với cộng đồng Hoa Kỳ và Tây phương, trong những thời gian đầu dạy Thiền, thường tránh nói về giới,
(Xem: 1362)
Khi sợ hãi, lo lắng, tâm ta đắm chìm trong những ý nghĩ về các biến cố kinh khủng có thể xảy ra trong tương lai.
(Xem: 1327)
Ăn chay là một thói quen ăn uống phổ biến gần gũi với tinh thần từ bi của Phật giáo.
(Xem: 1283)
“Xứng tánh làm Phật sự” là một câu trong bài nguyện hương mở đầu cho bất kỳ thời tụng kinh nào.
(Xem: 1488)
Sinh tử phiền não của mỗi người, đều phải dựa vào công năng tu hành của chính bản thân để đạt được giải thoát;
(Xem: 1558)
Một khi thân tâm ta thanh tịnh, hoàn cảnh sẽ tùy thuộc thanh tịnh.
(Xem: 1604)
Trong cuộc sống, dù khôn khéo hay thánh thiện đến mấy thì không một ai có thể tránh khỏi bị miệng lưỡi người đời chê trách,
(Xem: 1488)
Rất khó tìm hạnh phúcthế gian này. Thật vậy, khi nhìn quanh, ta không thấy gì ngoài đau khổ, phiền muộnhỗn loạn.
(Xem: 1443)
An cưcấm túc ở một chỗ, hạn chế tuyệt đối sự đi lại và nỗ lực tu học trong ba tháng mùa mưa, gọi là kiết hạ.
(Xem: 1239)
Trung Luận của Bồ tát Long Thọ phá trừ mọi bám chấp thuộc về kiến (cái thấy, quan niệm) của con người để hiển bày tánh Không.
(Xem: 1379)
Giáo pháp của Đức Phật nhằm hướng dẫn, giúp chúng sinh đối trị, vượt qua phiền não của chính mình để chuyển hóa thân tâm
(Xem: 1347)
Giới lớn nhất là giới bình đẳng. Phải thấy tâm bình đẳng. Phải giữ tâm bình đẳng.
(Xem: 1438)
Trong tâm lý học, cảm tính là một nội hàm bao gồm những cảm xúc bên trong con người, là một quá trình
(Xem: 1455)
Sáu pháp môn mầu nhiệm, Hán gọi là Lục diệu pháp môn. Nghĩa sáu phương pháp thực tập thiền quán, giúp ta đi vào cửa ngõ của định và tuệ, cửa ngõ giải thoát hay Niết bàn.
(Xem: 1534)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn và quan trọng hơn nữa là ...
(Xem: 1386)
Thân thể đau nhức mỏi nhừ, từng đốt xương rã rời như rụng rơi, những sợi cơ dường đã xơ cứng vô dụng,
(Xem: 1497)
Căn cơ của một người bình thường không thể nào biết được có kiếp trước hay kiếp sau.
(Xem: 1401)
Khi tâm thanh tịnh, người ta sẽ thấy thế giới thanh tịnh. Kinh Duy Ma Cật, phẩm Phật quốc thứ nhất, Đức Phật nói với trưởng giả Bảo Tích:
(Xem: 1363)
Cái ta trong đạo Phật gọi là ngã, trong triết học gọi là bản ngã, còn cái của ta gọi là ngã sở, tức là những sở hữu của cái ta.
(Xem: 1431)
rong hệ thống triết học và lề lối suy nghĩ của Tây Phương thì thế giới này có thật, sơn hà đại địa, con người và cái Tôi hay cái Ngã
(Xem: 1371)
Lần giở từng trang kinh Trung bộ - một trong 5 bộ kinh thuộc Kinh tạng Pāli, người đọc có thể dõi theo những bước chân của Đức Phật
(Xem: 1548)
Trong kiếp sống nhân sinh đầy gió bụi này, ai cũng mang trên người một chữ NGHIỆP.
(Xem: 1803)
Thế gian này đang quá nhiều bi thương, bởi con người còn đầy dẫy tham sân si, sống ích kỷ, đố kỵ, chỉ biết lo thâu tóm cho riêng mình,
(Xem: 1488)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1792)
“Phật Pháp cao siêu rất nhiệm mầu Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu Nay con nghe thấy chuyên trì tụng Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu”
(Xem: 1383)
Đôi khi những điều hữu ích nhất mà chúng ta học được không đến từ những người thầy mà từ những người như chúng ta, chỉ đang cố gắng để làm tốt nhất có thể với cuộc sống này.
(Xem: 1306)
Việt Nam cũng như cộng đồng Phật giáo Việt Nam hải ngoại, Phật giáo bắc truyền chiếm đa số, phần lớn tu sĩcư sĩ đều tu học theo truyền thống bắc tông.
(Xem: 1528)
Phật pháp lớn như biển, tin là con người có khả năng, nghi là khả năng chướng ngại.
(Xem: 1372)
Của báu thế gian chỉ tồn tại khi ta còn thở. Ngay khi chúng ta nằm xuống, chúng sẽ thuộc về người khác.
(Xem: 1441)
Trong câu chuyện hằng ngày, thỉnh thoảng chúng tôi có nghe một vài thiền sinh nhắc đến cụm từ “Vạn pháp tùy duyên”,
(Xem: 1602)
Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là ...
(Xem: 1816)
Nhiều người hôm nay đang mạnh khỏe, rồi bỗng dưng ngã bệnh và chết ngay hôm sau.
(Xem: 1844)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất.
(Xem: 1653)
Vô sanh là một từ được nói trong kinh điển cả hệ Pali và hệ Sanskrit, và trong mọi tông phái, để chỉ giải thoátgiác ngộ.
(Xem: 1842)
Sự sợ hãi là tập tính của con người khi mà những gì bất lợi xảy ra thì kéo theo sự sợ hãi bị ảnh hưởng liên lụy tác động đến mình.
(Xem: 1546)
Trong cuộc sống thì sự vật hiện tượng luôn thay đổi không ngừng, trong sự biến chuyển vô thường không cố định thì bất cứ hiện tượng sự vật...
(Xem: 1500)
Đức Phật dạy chúng ta phát triển giá trị nội tại bằng cách thiền quán về thiện ý, nhưng bạn phải có ý định thực hiện điều đó thì mới thực sự có kết quả
(Xem: 2024)
Mục tiêu của Kinh Hoa Nghiêm (Avatamsaka, Gandavyuha) là giúp ta có được cuộc sống an nhiên, tự tại, hạnh phúc ngay ở đây và bây giờ…
(Xem: 1614)
Có hai loại Bồ Đề Tâm: Bồ Đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh.
(Xem: 1549)
Một thời đức Thế Tôn trú ở Nālandā, tại rừng Pāvārikaṁba. Lúc ấy, thôn trưởng Asibandhakaputta đến gặp Đức Thế Tôn;
(Xem: 1490)
Quá nửa đời người rong ruổi giữa dòng đời, một ngày kia y soi kiếng chợt nhận thấy...
(Xem: 1468)
Khi giác hạnh đã viên mãn thì thọ mệnh Đức Phật tuổi đã bát tuần (80).
(Xem: 1547)
Giới luật là nền tảng căn bản của đạo giải thoát. Người tu nếu không tuân giữ đúng theo giới luật mà Phật đã răn cấm, thì ...
(Xem: 1407)
Thông thường, người thực hành đạo Phật tìm cách tránh thoát cái vô thường, cái sanh diệt để chứng nhập cái không vô thường, cái không sanh không diệt.
(Xem: 1690)
Ở đời có người quan niệm rằng, mình sống làm người, sau khi chết mình cũng sẽ tái sinh làm người ở một cõi nào đó, thậm chí có người còn nghĩ mình về sống dưới suối vàng.
(Xem: 1668)
Con người thường có quan điểm: “mạng sống, sự sống của con ngườivô giá, là giá trị nhất so với sự sống của muôn ngàn loài khác”
(Xem: 1525)
Khi chúng ta thức dậy vào buổi sáng và nghe radio hoặc đọc báo, chúng ta phải đối mặt với những tin buồn: bạo lực, tội ác, chiến tranh và thiên tai.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant