Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Cây Niềm Tin, Khởi Động Cơ, Khuyến Khích Tự Tâm

11 Tháng Sáu 201611:02(Xem: 7894)
Cây Niềm Tin, Khởi Động Cơ, Khuyến Khích Tự Tâm

CÂY NIỀM TIN, KHỞI ĐỘNG CƠ, KHUYẾN KHÍCH TỰ TÂM

Đức Đạt Lai Lạt Ma

La Sơn Phúc Cường

Cây Niềm Tin, Khởi Động Cơ, Khuyến Khích Tự Tâm


Tsuglagkhang, chính điện với hơn 10 ngàn thính chúng tham dự buổi giảng pháp trong ba ngày của đức Đạt lai Lạt ma. Hơn 2500 học sinh tiểu học và Trung học của TCVs và các học sinh lớp 10 tới lớp 12 tại Gopalpur, Suja, Selakui và Chauntra. Ngoài ra còn có 600 sinh viên đại học, xấp xỉ hơn 2 ngàn thính chúng quôc tế từ 66 nước và 5 ngàn thành viên người Tạng khác.

Ngài cảm thấy hoan hỷ khi sau nhiều thế kỷ, biện luận, triết học là những môn học vẫn được trì giữ tại các tự viện, và được các học sinh, sinh viên và hàng tại gia thực hành. Các môn học như toán học ít có ảnh hưởng tới sự phát triển nội tâm, trong khi nếu chúng ta tu học những lời đức Phật dạy, chúng ta chắc chắn sẽ có sự chuyển hóa dòng tâm mình. Ngài dạy rằng đã từng có những bài tập biện luận trong các trường học cho học sinh, sinh viên trong những ngày đầu rời xa đất nước, nhưng sau đó các trường đã không duy trì được. Những năm gần đây truyền thống này đang dần được phục hồi.

con người, chúng ta có một bộ não diệu kỳ và một trí tuệ giúp ta khám phá và thấu hiểu về sự vận hành của vạn vật. Nhưng ngài dạy rằng, “Điều quan trọng là phải biết sử dụng trí tuệ của mình cho những mục đích thiện lành. Chúng ta có hơn 100 tập Kangyur và hơn 220 tập Tengyur. Kangyur là những lời dạy của đức Phậtchúng ta thấy được sự trình bày các vấn đề một cách rất lô-gic, chặt chẽ với ý nghĩa rõ ràng. Trên hết đức Phật là bậc thầy tâm linh duy nhất khích lệ các đệ tử của mình khảo sát, suy xét những lời dạy của ngài hơn là chỉ chấp nhận trên lý nghĩa bề mặt.

Tiếp đến các luận sư như Trần NaPháp Xứng luận giảng về lô-gic và Nhận thức luận. Các kinh văn đã được chuyển dịch sang tiếng Tạng và ngày nay vẫn được tu học, tranh biện, trong khi đó nhiều bộ luận chưa được dịch sáng tiếng Hán. Điều quan trọng nhất là phải đọc, thấu hiểu lý nghĩa của kinh băn. Cũng giống như chẳng có ý nghĩa gì khi có một cuốn sách nấu ăn tại nhà nhưng chỉ giữ sách trên giá sách, sẽ chẳng có ý nghĩa gì nếu chỉ kính lễ các kinh văn này khi bày biện trên chính điện mà không nỗ lực tu học để thấu hiểu. 

Ngày nay các nguyên tắc đạo đức cơ bản dường như rất thiếu vắng trong xã hội, điều này ảnh hưởng tiêu cực tới mỗi cá nhân, gia đìnhquốc gia. Ngài lưu ý rằng thông điệp bản chất của tất cả truyền thống tôn giáophụng sự tha nhân, dù cho là Công giáo, Islam, Hindu hay Do thái giáo, mỗi tôn giáo đều có những hành giả mẫu mực và trung thực. Một trái tim nồng ấm không chỉ tốt lành cho sức khỏe mà còn tốt lành cho cả xã hội nữa. Rất cần thiết phải thấu hiểu các lợi ích của những nguyên lý đạo đứctác hại của một đời sống thiếu kỷ luật. Phật giáo với cái nhìn hiện thực rất gần với khoa học và giúp mang lại các giải pháp đối trị những phiền não, có lợi ích to lớn cho thế giới.

Nhiều phát minh khoa học đã chỉ ra rằng bản chất căn bản của con ngườitừ bi, dựa trên đó chúng tahy vọng về một thế giới tốt đẹp hơn. Chúng ta có thể thay đổi bản thân và có thể hy vọng tạo ra một thế giới nhân từ hơn. Nhưng cũng rất cần một cách tiếp cận toàn diện và phổ quát hơn để giáo dục cho con người về đức hạnh, trái tim chứ không chỉ thuần túytri thức. Đây vẫn là những năm đầu của thế kỷ 21, nhưng tôi tin tưởng rằng nếu chúng ta nỗ lực ngay từ lúc này chúng ta có thể mong chờ những thay đổi tích cực trên thế giới trong tương lại. Tôi thấy được khích lệ rất nhiều khi nghe trên BBC rằng có một số lượng lớn con người ngày nay đang xem mình là công dân toàn cầu.”

Ngài nhắc tới thời khắc đức Phật ngay sau khi giác ngộ, ngài đã băn khoăn không có một ai sẽ thấu hiểu những giáo pháp thâm diệulợi lạc của ngài. Nhưng sau khi chư thiên thỉnh cầu ngài truyền trao giáo pháp, ngài đã truyền trao cho năm anh em ông Kiều Trần Như và bốn người bạn, luận giảng giáo pháp Tứ Diệu Đế cho họ. Ngài đã chỉ ra rằng những nhân của khổ đau có thể tận trừ và nếu mỗi người có thể tận trừ được các nhân này thì họ sẽ có hạnh phúc và niềm an lạc mãi mãi. Ngài dạy rằng:

“Nếu quý vị không muốn khổ đau thì quý vị phải tận trừ những nhân gây nên chúng. Lý do chính là nghiệp và các phiền não, và căn nguyên nằm ở vô minh. Bản chất của tâm là quang minhtỉnh giác. Vô minh không phải là bản chất của tâm; nó mong manh, tạm bợ và có thể bị tận trừ. Hoàn toànthể diệt trừ được các phiền não trong tâm mỗi người và để thành tựu được, mỗi người phải biết rèn luyện dựa trên tam học Giới-định-tuệ.


Ngài nhắc tới 3 lần đức Phật chuyển Pháp luân. Ngài chỉ ra rằng trong lần chuyển Pháp luân thứ nhất, ngài đã truyền giáo pháp Tứ Diệu đế, trong lần thứ hai, ngài truyền trao các giáo pháp Trí tuệ Bát nhã, làm sáng tỏ bản chất thực của Diệt đế. Lần chuyển pháp luân thứ ba, ngài dạy sâu rộng hơn về Đạo đếbản chất của tâm.

Liên quan tới Cây Niềm tin, khởi phát tự tâm, bản kinh văn mà ngài sẽ truyền dạy, ngài dạy rằng bản kinh văn này bắt nguồn từ 16 Giọt Kadam, một giáo pháp đặc biệt bắt đầu từ ngài Atisha, Dromtonpa, Ngok Legpai Sherab, Nagtso Lotsawa and Geshe Kawa at Yerpa Lhari Nyingpo. Ngài Ngok đã thỉnh cầu Atisha truyền dạy về các đời trước của ngài Dromtonpa.

Ngài đã thụ nhận giáo pháp này từ Ling Rinpoche tại Tây Tạng và khi ngài thỉnh cầu Trijang Rinpoche truyền trao một lần nữa, Rinpoche đã nhập thất trước khi truyền pháp cho ngài. Bản kinh văn này được tụng đọc, truyền khẩu trong phần quán đỉnh. Đối với ngài, khi đã nhận giáo pháp ngài luôn bước vào nhập thất. Có năm đề mục được luận giảng trong bản kinh văn: Quy y nơi bậc thầy; quán tưởng tự thân là bản tôn; trì tụng chân ngôn; trưởng dưỡng Bồ đề tâmtrí tuệ tính không. Ngài cũng nhắc tới việc khi truyền trao quán đỉnh tại Nam Ấn vào mùa đông năm ngoái ở cuối giai đoạn giáo pháp Các Giai tầng Giác ngộ, ngài thấy cần thiết truyền trao bộ kinh văn vào thời điểm này.

Tiếp đến ngài đã tụng đọc và khẩu truyền các câu kệ trong bộ kinh văn. Sau khi quan sát tất cả thính chúng đều có bản copy bộ kinh văn, ngài đã khích lệ thính chúng hãy đọc kỹ bản kinh văn một lần nữa, suy tư về lý nghĩa mà ngài đã luận giảng và hãy cùng nhau thảo luận.

Ngày giảng pháp thứ hai. Ngài trích dẫn câu kệ tổng quát tất thảy giáo pháp của đức Phật:

Không làm những điều ác,
Làm tất thảy điều lành,
Hãy điều phục tâm mình.
Đó là lời Phật dạy.

Ngài dạy rằng các hành động bất thiện trên thực tế thuộc về phạm vi tương đối chứ không phải tuyệt đối. Ngài nhắc lại câu chuyện về vị thuyền trường, một trong các đời trước đây của đức Phật, đã phát hiện ra một kẻ tướng cướp lập kế hoạch giết hại 500 thương nhân trên thuyền của ông. Ông đã quyết rằng nếu ông giết người lầm lạc này thì không chỉ cứu sống được 499 người mà bản thân mình còn bảo vệ hắn khỏi kết quả kinh khủng của hành động sẽ giết hại họ. Trong trường hợp này, mặc dù đã lấy đi mang sống của một người nhưng có những kết quả tiêu cực, các hành động đó cũng tích lũy được công đức to lớn. Ngài cũng dạy thêm rằng: là Phật tử chúng ta nói rằng chúng ta không được làm những việc bất thiện bởi khi ấy ta sẽ nhận lấy quả là khổ đau, không chỉ đơn giảnđức Phật dạy như vậy là chúng ta không làm.

Với câu kệ kế tiếp, Hãy điều phục tâm mình. Ngài đặt câu hỏi, Tâm thức là gì? Và nhắc lại rằng có nhiều nhà khoa học đưa ra quan điểm cho rằng, tâm không là gì khác ngoài một chức năng của não. Các sinh viên lớp trẻ tuổi từ Upper TCV đã tham gia vào nhóm tranh biện về màu sắc. Tiếp theo nhóm nhiều tuổi hơn tranh biện về nhân và duyên. Ngài đã luận giải rằng, học hỏi về hai chân lý tạo nên một sự khác biệt nơi mỗi người và ngài đã luận giải về lòng trân trọng, tri ân tới lòng tốt của hết thảy chúng sinh. Không chỉ chúng ta thành tựu giác ngộ là nương vào lòng từ của các chúng sinh khác, mà tất cả mọi điều ta ân hưởng trong đời sống hiện giờ đều phụ thuộc vào lòng từ của chúng sinh. Ngài dạy rằng khi đã có được sự thấu hiểu đó sẽ giúp mỗi hành động, việc làm của ta đều hướng tới phụng sự mục đích của Pháp.

Một thành viên khác đã đứng lên tri ân ngài giúp họ hiểu được về giá trị nền văn hóa của dân tộc mình. Tiếp đến, thay mặt các sinh viên trong quá khứ, hiện tại và tương lai, họ cúng dường ngài bức thanka đức Phật Dược Sư.

Trở lại mối quan hệ giữa bộ não và dòng tâm thức, ngài đã dạy rằng vào cuối thế kỷ 20, một số nhà khoa học bắt đầu đặt vấn đề về dòng thức vi tế sẽ không thể tồn tại nếu tách rời bộ não. Ngài nhắc lại một câu hỏi ngài đã đặt lên cho các nhà khoa học, “Nếu tất cả các điều kiện để nhận thức diễn ra đều được đặt đúng vị trí, buồng trứng, trứng và tinh dịch đều trong điều kiện lý tưởng vậy thì thức có diễn ra một cách tự nhiên không?”. Câu trả lời của các nhà khoa học là không. Ngài đã luận giải rằng, các điều kiện xa hơn của thức có thể không hiện diện.

 Nhắc là quan kiến Trung đạo rằng, bản ngã thuần túy chỉ là định danh trên nền tảng hợp uẩn thân tâm, ngài đưa ra nhận định rằng: “Tại một hội đàm đa tôn giáo tổ chức tại Amritsar, một bậc thầy hàng đầu đạo Do thái từ Ajmer cho rằng tất cả tôn giáo đều đề cập tới ba vấn đề: cái tôi hay bản ngã là gì? Nó có điểm khởi đầu không? Và nó có điểm kết thúc không?

Xác quyết rằng không có một bản ngã tồn tại một cách cố hữu nào, Phật giáo cho rằng bản ngã phụ thuộc vào hợp thể thân tâm. Lý do là như vậy và bởi vì tâm không có điểm bắt đầu, nên bản ngã cũng không có điểm bắt đầu. Dù cho có điểm kết thúc hay là không thì phần lớn quan điểm của các trường phái Phật giáo đều cho là không.”

Trong khi nghỉ giữa các thời khóa, các sinh viên đã đặt lên ngài câu hỏi. Với những người đặt câu hỏi rằng quy y Tam bảo có phải là tiêu chuẩn duy nhất đối với một Phật tử, ngài trả lời rằng chấp nhận bốn Pháp ấn:

Tất cả những pháp duyên sinh đều vô thường
Tất cả các pháp nhiễm ô, bản chất đều khổ đau
Tất cả các pháp đều là tính khôngvô ngã.
Niết bàn là sự an bình thực sự.

Đây cũng là một thước đo khác để xác quyết có phải theo đạo Phật hay không.

Ngài chia sẻ với một sinh viên vừa đặt câu hỏi về bốn trường phái tư tưởng Phật giáo khi đức Phật truyền trao giáo pháp Tứ diệu đế, ngài có nhắc tới Tính không, nhưng Tính không được luận giảng sâu sắc hơn trong giáo pháp Trí tuệ Bát nhã trong lần chuyển pháp luân thứ hai. Sau đó, các đạo sư Nalanda đã luận giảng về Tính không thậm chí còn chi tiết hơn.

Tán thán một người sinh viên đã gửi lời tri ân ngài trước lời dạy thâm sâu vào năm ngoái, ngài dạy rằng bản thân mình thiền định hàng ngày về cái chết và vô thường, và phát hùng tâm giải thoát khỏi những phiền não khổ đau. Ngài cũng dạy về việc cần thiết phải trưởng dưỡng các phẩm chất thông tuệ, khiêm cung và nhân từ. Một sinh viên khác muốn biết bằng cách nào mà những thứ chúng ta học được trong đời này làm lợi ích đời kế tiếp. Ngài dạy rằng các hiểu biết ban đầu phụ thuộc vào những ngôn từ mà ta đọc hay lắng nghe, nhưng khi chúng ta suy tư về lý nghĩa và phát triển sự xác quyết thì những ảnh hưởngý nghĩa về những điều mình thấu hiểu thì sẽ in vào dòng tâm, thậm chí nếu ta không còn nhớ được những từ gốc ban đầu nữa.

Trở lại với việc tụng đọc bộ kinh văn Cây Niềm tin, khởi Động cơ của  Dromtonpa, ngài đã nhắc tới các phẩm hạnh của một vị thầy được ghi chép trong luật tạng, trong khi kinh điển liệt kê 10 phẩm hạnh. Ngài trích dẫn lời của đức Je Tsongkhapa dạy rằng, những ai mong nguyện điều phục dòng tâm của người khác trước hết phải điều phục dòng tâm của chính mình. Bồ đề tâm giác tỉnh rất là quan trọng nhưng những phẩm hạnh khác cũng phải được khai phát là dũng lựctín tâm. Ngài dạy rằng ngày mai ngài sẽ cử hành nghi thức khai phát tâm Bồ đề  và bởi phần lớn thính chúng là sinh viên, nên ngài cũng sẽ truyền trao quán đỉnh Văn thù, vị bồ tát tượng trưng cho trí tuệ.

“Cá nhân tôi có trải nghiệm riêng rằng nếu quý vị biết nương nơi đức Văn thù, thiền quán và trì tụng chân ngôn đức Văn thù, có thể giúp quý vị tăng trưởng trí tuệ và sự thông mình của mình.”

Ngày thứ ba, mùng 03 tháng 06, 2016- Trong nghi thức khai phát Bồ đề tâm, ngài trích dẫn lời của đức Di Lặc trong “Tràng phan Liễu ngộ Thực Chứng” đã định nghĩa Bồ đề tâmtâm nguyện chứng đạt giác ngộ vì lợi ích của hết thảy chúng sinh.

Bất kỳ khi nào chúng hữu tình nghĩ về bản thân mình, họ đều có một ý niệm về cái tôi trong mối quan hệ với thân, tâm, với gia đình và bạn bè họ. Con người có một ý niệm về cái tôi là người làm chủ hợp uẩn vật lý-tâm lý. Nhưng Phật Pháp lại không thừa nhận bất kỳ sự tồn tại  nào về cái tôi. Giáo pháp không thừa nhận bất kỳ một ý niệm nào về một cái tôi tồn tại một cách cố hữu.

Nếu quý vị chỉ suy nghĩ về bản thân mình, quý vị đã tự đặt mình vào một tình huống bất lợi. Nếu thay vào đó, quý vị rộng mở tâm hồn, trái tim và mở rộng sự quan tâm tới mọi người, quý vị sẽ tự do khỏi sợ hãibất an. Nếu quý vị biết nhìn tất thảy mọi hữu tình cũng đều giống như quý vị, họ đều không muốn khổ đau, thì tâm ngã ái sẽ được giảm thiểu. Hãy nhìn những người xung quanh mình, những người biết tôn trọngquan tâm tới mọi ngườixu hướng an lạc hơn những người chỉ biết tới lợi ích bản ngã của mình. Hãy nghĩ về những người biết chia sẻ những thứ họ có, bất kỳ những gì tốt lành họ có và so sánh với những người chỉ biết khư khư giữ cho mình, ai trong số họ hạnh phúcbình an hơn?

Là những người Tạng trẻ tuổi, hãy mở rộng lòng mình tới tha nhân, tới 6 triệu người dân tộc chúng ta, tới những người dân châu Á khác, tới toàn bộ dân số thế giới và tới hết thảy chúng hữu tình. Bồ đề tâmtâm nguyện chứng đạt giác ngộ vì lợi ích hết thảy chúng sinh. Bồ đề tâm bao gồm hai phần, tâm nguyện lợi ích mọi người, chúng sinhtâm nguyện chứng đạt giác ngộ.

Ngài chia sẻ về khoảng 40 tới 50 năm trước, ngài luôn tôn kính Bồ đề tâm nhưng thực sự thì khai triển trong thực tế không hoàn toàn dễ dàng. Sau đó vào năm 1967, ngài nhận được những luận giảng về Nhập Bồ tát hạnh từ Khunnu Lama Rinpoche, thầy đã khuyên ngài nên truyền dạy bộ luận này cho đại chúng. Dần dần sự quan tâm của ngài ngày một lớn hơn và ngài bắt đầu thấy Bồ đề tâm thực sự có thể tiếp cận được trên thực tế. Ngài Shantarakshita đã dạy rằng, những ai có trí tuệ sắc bén phát triển sự thấu hiểu Tính không trước hết và sau đó trưởng dưỡng Bồ đề tâm trên nền tảng đó, ngài dạy rằng ngài cũng thực hành tuần tự theo thứ lớp như vậy. Ngài dạy rằng, ngài đã suy tư về Tính không từ khi mới 20 tuổi, nhưng điều quan trọng chính là phải hợp nhất được Tính khôngTừ bi.

Trong suốt thời khóa khai phát Bồ đề tâm, ngài đã dừng lại kể cho đại chúng về tôn tượng Avalokiteshvara tại Tsuglagkhang. Ngài nhắc tới một giấc mơ mình đang nhiễu quanh một tôn tượng đức Avalokiteshvara tự hiện khởi. Tôn tượng đã cất lời mời ngài tới gần và khi ngài tới gần, tôn tượng đã trì tụng cúng dường ngài một câu kệ về giữ niềm tinh tấn hỷ lạc. Tôn tượng này sau đó bị phá hủy trong suốt cuộc Cách mạng văn hóa, nhưng một số mảnh vỡ của tượng đã được ngài mang theo. Những mảnh vỡ đã được đặt trong tôn tượng quan Âm Thập nhất diện tại chính điện ngày nay.

 Tiếp đến ngài khẩu truyền chân ngôn Văn Thù, quán đỉnh bắt nguồn từ ngài Rinjung Gyatsa, một tập nghi quỹ và các giới nguyện từ ngài Panchen Rinpoche đời thứ IV (1781-1854). Tiếp đến ngài khẩu truyền các câu kệ trong “Cây Niềm tin, khởi Động cơ” của ngài Dromtonpa.

Ngài nhắc tới bậc trưởng lão Amdo Lama trứ danh đã thỉnh mời ngài tới làng để truyền trao giáo pháp. Khi ngài đã trả lời rằng, ngài đã có tuổi để có thể đi giảng ở những nơi xa xôi như vậy, người dân làng đã trả lời rằng: Xin ngài hãy tới thậm chí chỉ tới ban sự gia trì thôi. Sau đó ngài đã tới và truyền ban giáo pháp rất thâm diệu và khá dài, cuối cùng ngài đã nói rằng: Bản thân không phải là loại bậc thầy chỉ biết đặt tôi bàn tay trần tục lên đầu người khác để ban cho họ sự giải thoát. Bản thân ngài chỉ mang lại những khai thị giúp họ thấu hiểu được giáo pháp của đức Phật thôi.”

La Sơn Phúc Cường trích dịch từ Dalailama.com
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 12849)
Nhờ ánh sáng vô lượng của Đức Phật sẽ dắt ta ra khỏi chốn tử sinh và qua lực từ bi của Đức Phật, chúng ta sẽ được thăng hoa trong cuộc sống... HT Thích Như Điển
(Xem: 11529)
Đức Phật đã từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta chỉ có một vị duy nhấtgiải thoát.”
(Xem: 16736)
Chùa Hải Đức ở số 51 đường Hải Đức, phường Phương Sơn, phía Tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đường lên chùa là một con dốc dài... Hồ Văn Tâm
(Xem: 19802)
Giao thừa ta đốt trầm hương ngát, Xin những bàn tay xích lại cùng. Thung Lũng Hoa Vàng xuân mới nở, Cùng nhau dựng lại một quê hương.
(Xem: 15786)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13023)
Năm sau, Ba đã ngoài 80 tuổi và vẫn muốn về Quê thăm nơi chôn nhau cắt rốn... Bạch Xuân Phẻ
(Xem: 12965)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, mong đạt được điều như ý, vì càng cầu toàn thì càng thêm đau khổ thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống.
(Xem: 12998)
Ngày 14/12/2012 vừa qua một cuộc thảm sát thương tâm đã xảy ra tại trường tiểu học Sandy Hook thuộc thị trấn Newtown của nước Mỹ... Thích Pháp Lưu
(Xem: 15441)
Nếu chúng ta là những người con Phật có Trí Huệ thì đừng bao giờ giận hờn một sự thật đã xảy ra cả. Bất chấp sự thật nó oan trái oái ăm làm phật lòng ta...
(Xem: 12165)
Những ngày tháng mầu nhiệm - Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10 trên núi đồi Đa Bảo, vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012. Thích Như Điển
(Xem: 12941)
Ngưỡng mong Hòa Thượng hồi nhập ta bà để tiếp tục dìu đỡ chúng con trên bước đường tu học.
(Xem: 15625)
“Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...”
(Xem: 13730)
Trong cuộc bể dâu này tôi linh cảm ra điều thiêng liêng rằng mẹ hiền của tôi vẫn luôn luôn hiện hữu ở bên tôi!
(Xem: 14955)
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có.
(Xem: 13683)
Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào.
(Xem: 13651)
Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại...
(Xem: 12868)
Ngày Hiệp Kỵ muôn phương đều câu hội, Vượt năm châu, bốn biển kéo nhau về, Nghĩa Linh Sơn cốt nhục vẹn ước thề, Tình pháp lữ không bao giờ suy suyễn. Tịnh Tuệ
(Xem: 13553)
Yêu thương, hy sinhrộng lượng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nào có một gợn sóng dấy lên hay một chút gì đó khác biệt mà thôi.
(Xem: 13423)
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình như hai bó lau.
(Xem: 15114)
Anh luôn ghi lòng tạc dạthực hành lời căn dặn của sư phụ: “Tránh đại ngôn sẽ ngừa được khẩu nghiệp, Nhẫn nhục sẽ ngừa được thân nghiệp...
(Xem: 14567)
Tôi đặt tình yêu thương và sự tử tế vào trong suy nghĩ, trên đôi mắt và dưới cái miệng để lòng tôi được trong veo, con mắt tôi nhìn đời trìu mến...
(Xem: 13730)
Một sáng vừa hé mắt nhìn ra khung cửa ta thấy ánh bình minh đang chờ ở bên ngoài. Chỉ một đêm xa cách, ánh sáng của mặt trời lại trở về với mọi người.
(Xem: 14044)
Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình...
(Xem: 13259)
Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui...
(Xem: 13270)
Mặc Giang đã đem đến cho độc giả những vần thơ nhân bản sâu sắc nói lên sự vô thường giả tạm, mong manh để tìm ra cái lẽ chơn thường của cuộc đời.
(Xem: 14497)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn.
(Xem: 13723)
Lòng tốt, sự nhiệt tình nếu không đi cùng hiểu biết thì mọi việc sẽ khó thành tựu, khó có lợi ích thiết thực.
(Xem: 14823)
Sự dối trá không chỉ ở nghĩa thông thường là nói dối hay làm dối, mà còn bao hàm cả việc biết người khác đang gặp nguy hiểm mà không giúp.
(Xem: 17544)
Trong các phiền não của thế gian, nóng tính, giận dữ hay sân hận là những kẻ thù nguy hiểm có sức tàn phá công đức khủng khiếp nhất.
(Xem: 14264)
Phật tánh cũng lại ở ngay trong tự tâm ta. Không ở ngoài đến. Ai cũng sẵn có. Cho nên ai cũng sẽ là Phật, một khi “Thức tự tâm chúng sanh thì sẽ kiến tự tâm Phật tánh”.
(Xem: 16677)
Những độc tố của tham muốn, giận hờn và si mê tuông ra từ tâm thức của chúng ta, sẽ được tẩy rửa thanh tịnh bằng sự rộng lượng, với tình thươngtuệ giác.
(Xem: 17861)
Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho.
(Xem: 15352)
Tôi nghĩ một nền tảng giáo dục vững chắc để từ đó nhận ra được bản tâm tự nhiênvô cùng quan trọng đối với bất cứ ai. Đó là cội gốc sâu bền...
(Xem: 15240)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
(Xem: 16872)
Viết tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc sau những ngày đã trải qua nhiều sự kiện đáng ghi nhớ... - HT Thích Như Điển
(Xem: 29167)
Mây phương đông vẫn lên hường, Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn... (Trụ Vũ - Quê Hương)
(Xem: 16137)
Câu chuyện để suy gẫm về những gì đang hiện hữu quanh ta... Những Đứa Trẻ của Trần Trung Thanh
(Xem: 17891)
Tháng Bảy đi qua, với những ngày mưa âm thầm bên phố quen, nơi dòng xe cộ đông đúc, mình ngắm mưa mà những “khung hình” về mưa cứ đi qua, đi qua.
(Xem: 19140)
Trời đã về chiều nhưng đôi chân kẻ du hành dường như không muốn ngơi nghỉ, "ta phải đi về nơi có tiếng chuông xa ngân dài kia...
(Xem: 21269)
Chúng tôi đều là những chúng sanh - như muôn vàn chúng sanh khác - đã gieo chủng tử giác ngộ từ kiếp nào đó...
(Xem: 19600)
Này tôi, tôi đang ở đây, giữa thiên nhiên tuyệt vời, giữa cái thinh lặng tuyệt vời của một nội tâm trong sáng, không chút tạp niệm nào của đời sống đua chen.
(Xem: 22806)
Có lẽ, nụ cười chân thiện của Ðức Phật cùng với những đôi mắt Từ bi của chư Phật và giáo pháp mang tính triết lý sâu sắc đã ươm những mầm xanh tươi đẹp vào tâm hồn này.
(Xem: 17125)
Phóng cá, thả chim đặt trên nền tảng tâm từ như thế thì việc phóng sinh của ta dù ít hay nhiều, dù có hay không, đều mang đầy đủ ý nghĩa phóng sinh.
(Xem: 17524)
Từ bitrí tuệ là nhân và quả hoán chuyển lẫn nhau trong nhãn quan Phật giáo. Nhân loại không chế ra hai khẩu súng để hôn nhau và tri thức con người không dấy động lên hai lời phản bác...
(Xem: 16068)
Theo chúng tôi, nói đến ĐTKVN (rõ hơn là ĐTK Việt Nam, phần Phật giáo Bắc truyền) thì phải nói đủ 3 tạng Kinh, Luật, Luận...
(Xem: 15843)
Phương tiện rất cần thiết để hỗ trợ cho thành tựu cứu cánh nhưng chạy theo phương tiện mà quên đi cứu cánh là sự vong bản, là đốt trầm để bán than.
(Xem: 21567)
Ánh mắt Từ Bi của Ngài đang nhìn xuống chúng sanh như xoa dịu bao nỗi đau thương, trong cảnh đời nhiều nỗi mưa sa bão táp, mà vỗ vềan ủi cho lòng được lắng đọng thanh lương... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19655)
Cứ mỗi lần tụng kinh, lễ sám, quý Thầy lạy Tổ trước khi lên chánh điện, nhìn hình ảnh chư Tổ tôn trí trang nghiêm trong khám thờ mà nhớ Tổ Tổ truyền cho nhau, ngọn đèn được mồi tiếp sáng luôn bất tận... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 20030)
Ngày Về Nguồn là dịp để Tăng chúng, pháp lữ thăm hỏi với nhau và cùng nhau ôn lời Phật dạy, lặp lại ý Tổ khuyên mà tô bồi vun quén cho đạo tình ngày thêm thắm đượm... HT Thích Nguyên Siêu
(Xem: 19293)
Bà Aung San Suu Kyi trích lời Phật khi Ngài nói về bốn nguyên do suy thoái và thối rữa: không tìm lại được cái gì bị mất, không chịu sửa lại cái gì bị hư...
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant