Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giàu CóHạnh Phúc

29 Tháng Sáu 201616:46(Xem: 8644)
Giàu Có Và Hạnh Phúc

GIÀU CÓHẠNH PHÚC

Liên Trí

GIẦU CÓ VÀ HẠNH PHÚC

 

Thông thường, rất nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng một người giàu có thường là người hạnh phúc, hay ít ra, họ dễ có cuộc sống hạnh phúc hơn người khác. Vì tin như thế, trong cuộc sống, chúng ta lao vào làm giàu và làm giàu không mệt mỏi để thực hiện khát vọng hạnh phúc của mình. Thế nhưng, kết quả nghiên cứu trong nhiều năm qua cho thấy rằng, sự thật không hẳn như vậy.

Trong một nghiên cứu ở Mỹ, Easterbrook (2003) cho thấy rằng mặc dù với thu nhập cao hơn, các dịch vụ y tế tiện nghi hơn và giáo dục ngày càng tốt hơn so với những năm trước, người ta vẫn cảm thấy rằng họ kém hạnh phúc hơn trước. Như vậy, sự giàu có về của cải vật chấtyếu tố cần thiết để duy trì cuộc sống cho tất cả con người chúng ta, nhưng nó không đủ để đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc.

Người kỳ công nghiên cứu trong nhiều thập niên về lĩnh vực này là Easterlin. Trong một thời gian dài (từ năm 1974 đến năm 2003), Easterlin đã thực hiện 30 nghiên cứu thống kê ở 19 nước và đi đến kết luận rằng, khi những nhu cầu căn bản như ăn, mặc, ở và y tế được đáp ứng, sự giàu có không liên quan đến mức độ hạnh phúc trong cuộc sống. Kết quả các nghiên cứu này tưởng chừng khó tin đối với nhiều người trong chúng ta khi kết luận rằng sự giàu có không đảm bảo cho chủ nhân nó một đời sống hạnh phúc.

Tại sao giàu có chưa chắc đem lại hạnh phúc?

Một số nghiên cứu khác cũng đưa ra kết quả tương tựcố gắng tìm nguyên nhân để lý giải tại sao người lắm tiền nhiều của lại không có hạnh phúc. Theo nghiên cứu của Argyle (1999), những người giàu thường có ham muốn giàu có hơn và chính lòng ham muốn ấy làm cho họ ít được hạnh phúc trọn vẹnbền vững.

Duesenberry (1949) làm một cuộc khảo sát, lấy ý kiến trong công chúng ở Mỹ vào thập niên 40 của thế kỷ XX, kết luận rằng những người có thu nhập cao có động cơ phải có thu nhập cao hơn nữa mới có thể làm cho những người thân trong gia đình hạnh phúc. Đồng thời, họ cũng có tâm lý bất an thường trực trong tâm, khi đồng hóa chính bản thân mình với của cải vật chất và bao phủ mình với những thứ hào nhoáng bên ngoài để tạo hình ảnh giàu có trong mắt người khác. 

Veblen (1967) thực hiện một nghiên cứukết luận rằng, người giàu có coi việc tiêu xài là một tiêu chí để xác định vị trí xã hội của mình. Vì sĩ diện, sự cạnh tranh trong mua sắm và chi xài của những người có thu nhập cao cũng tạo nên tâm lý không bình an cho những người dư ăn dư để này. Mấy thập niên sau, trong một thống kê của mình, Schor (1998) cho thấy rằng, hơn nửa dân số Mỹ, nơi số lượng người giàu có nhiều nhất thế giới, nói rằng họ không thể nào thỏa mãn được mọi thứ họ cần và họ cảm thấy không có hạnh phúc trọn vẹncảm giác ‘chưa đủ’ này.

Những công trình nghiên cứu được trưng dẫn ở trên cho chúng ta một kết luận thuyết phục rằng, sự giàu có không đủ để đảm bảo một cuộc sống bình anhạnh phúc. Với mớ của cải vật chất dù rất nhiều trong tay, người giàu vẫn không hạnh phúc. Trong khi người nghèo thiếu hạnh phúc vì các nhu cầu căn bản để duy trì sự sống chưa được thỏa mãn, người giàu, những tưởng họ hạnh phúclắm tiền của, thì lại khổ vì lòng mong cầu không biết đủ. 

Chính lòng ham muốn làm cho con người khổ. Đây là ‘căn bệnh’ khó chữa và nếu để tâm lý này phát triển tự nhiên, nó sẽ không có giới hạn mà ta quen gọi là “lòng tham vô đáy”. Người bị tâm tham thúc bách không thể nào nếm được hương vị hạnh phúc thật sự dù sống trên cả núi vàng. Ham muốn của con ngườimuôn thuở và không bao giờ được thỏa mãnchính tâm lý ‘không thỏa mãn’ làm con người cứ mãi khổ đau và bất an. Chỉ khi nào ý thức được hạnh phúc tỷ lệ nghịch với lòng ham muốn, con người mới biết cách tạo dựng hạnh phúc cho mình.

Khéo thọ dụng để được hạnh phúc

Những kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với lời Đức Phật dạy cách đây hai mươi sáu thế kỷ, rằng “các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn” (Trung bộ kinh số 22: Kinh ví dụ con rắn). Đức Phật dùng nhiều ví dụ rất sinh động để diễn tả sự khổ đau do tâm tham dục gây nên: ham muốn được ví như khúc xương, như miếng thịt, như bó đuốc cỏ khô, như hố than hừng, như cơn mộng, như vật dụng cho mượn, như trái cây, như lò thịt, như gậy nhọn, như đầu rắn. Sẽ không có ấn tượng nhiều nếu chúng ta chỉ đọc qua mười hình ảnh này. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ, chúng ta thật ấn tượng đến mức nó đủ mạnh để đánh động tâm lý của mỗi người, dần nhẹ bớt và bỏ đi tham dục nếu muốn có được hạnh phúc thật sự.

- Các đối tượng của ham muốn như khúc xương: Qua sớ giải kinh Trung bộ, chúng ta hiểu hơn về cách sử dụng hình ảnh minh họa của Đức Phật. Khi dùng hình ảnh khúc xương để ví cho ham muốn, Đức Phật muốn chúng ta cảm nhận sự vô dụng, vất vả và hoài công của một con chó đói lả và suy nhược ôm gặm một khúc xương đã lóc sạch thịt, chỉ còn xương trắng, dính tí máu và bay chút mùi thịt còn sót lại. Cứ thế, con chó gặm tới, gặm lui, lật qua, lật lại khúc xương đến mệt nhoài mà không no được tí nào. Dù vậy, con chó không thể quăng đi khúc xương. Nó có một sự hấp dẫn mà con chó không dễ dàng từ bỏ. Người nhiều ham muốn cũng vậy. Bản chất của ham muốn là khổ đau chứ không phải hạnh phúc, vậy mà con người không biết buông bỏ đúng pháp để có hạnh phúc.

- Các đối tượng của ham muốn như miếng thịt: miếng thịt là đối tượng để tranh giành và là nguồn gốc của hiểm nguy, đau khổ. Khi một con chim giành được miếng thịt liền muốn giữ lấy cho riêng mình mà bay bổng lên không trung, trong khi những con chim khác cũng đang cố tìm mồi. Vì vậy, chúng đuổi theo để tranh giành miếng thịt. Chúng đánh nhau, cấu xé lẫn nhau, để được miếng mồi, bất chấp nguy hiểm, thương vong, thậm chí đổi lấy tính mạng cốt chỉ để giữ được miếng mồi và đoạt được miếng mồi. Ở con người cũng vậy, mọi tranh giành quyền lợi cá nhân cho đến chiến tranh xảy ra đều bắt nguồn từ lòng tham. Mọi xung đột với nhau, chiến tranh và chết chóc không ngừng xảy ra trên cuộc đời này khi con người còn khát vọng chiếm hữu sai lầm và ngỡ rằng nếu thành tựu, họ sẽ có hạnh phúc. An lạc, hạnh phúc chỉ có mặt trên thế giới này khi và chỉ khi con người bỏ đi quan niệm sai lầm rằng hạnh phúc có thể tìm thấy từ sự chiếm hữusở hữu vật chất, cũng như con chim chỉ được yên thân khi nó vứt bỏ được miếng mồi kia, đó là thông điệp của Đức Phật trao gởi qua ẩn dụ này.

- Các đối tượng của ham muốn như bó đuốc cỏ khô: cỏ khô là vật liệu rất dễ gây cháy, bắt lửa mạnh. Một người cầm bó đuốc cỏ đang cháy rực mà đi ngược gió thì rất là nguy hiểm, lửa sẽ tạt vào phía mình và người ấy đã bị cháy tay, cháy mặt và các bộ phận khác, bỏng nặng và có thể dẫn đến tử vong. Người không có trí tuệ, tham đắm dục lạc cũng như vậy, tự rước họa vào mình, đến khi nhận ra vấn đề thì đã quá trễ.

- Các đối tượng của ham muốn như hố than hừng: Ẩn dụ này được giải thích tỉ mỉ ở kinh số 75: kinh Magandiyacủa Trung bộ kinh, rằng có một người bị bệnh cùi thân thể lở lói, các loài trùng đục khoét các vết thương. Để dịu đi cơn ngứa, người này hơ đốt thân mình trên hố than hừng cháy, nhờ đó cảm thấy dễ chịu, thỏa thích, đã ngứa. Tuy nhiênnguyên nhân ấy mà các vết thương càng đau nhức, càng lở lói và không thể nào lành được, bệnh tình người ấy sẽ trở nên trầm trọng suýt chết và cũng có thể dẫn đến cái chết. Sự thỏa thích dễ chịu nhờ hố than hừng như vậy đã đồng nghĩa với sự hiểm nguy. Người lòng nhiều ham muốn thì “càng thâu càng đắm, càng làm càng say” (Ni trưởng Huỳnh Liên- Thân) mà không hề ý thức được đó là nguồn gốc của khổ đau.

- Các đối tượng ham muốn như giấc mộng: những gì ta thấy trong mơ thường đẹp đẽ, lung linh, khi thức giấc thì thực tế không còn gì. Ham muốn vật chất chẳng khác nào chơi trò cút bắt và cái ta được là cái bóng của hạnh phúc cứ vờn trước mặt, còn mình thì mệt nhoài và cái kết là đắng cay đau khổ.

- Các đối tượng ham muốn như vật mượn xài: vật đi mượn để dùng xài rồi phải trả, khi trả xong, không còn gì là của mình. Nếu ai lầm chấp vật mượn là của mình, sẽ hụt hẫng, khổ đau. Nếu chấp vật chất thế gian là của mình, một khi vô thường biến hoại diễn ra, ta chịu nhiều đau khổ, căng thẳng, bất ansầu muộn.

- Các đối tượng ham muốn như trái cây: trái cây thu hút nhiều người đến, thế là họ thi nhau hái bằng mọi cách, rồi họ mang theo cả rựa, búa chặt luôn cả cây để hái được nhiều trái, rồi nhánh cây, gốc cây bật đè bị thương, gãy tay gãy chân, có khi đến chết. Sự ham muốn trái cây không hề đem lại cho người ham muốn chút an ổn nào cả. Người đam mê dục lạc cũng tự chuốc lấy nguy hiểm, bất anđau khổ.

- Các đối tượng ham muốn như lò thịt: nơi lò thịt, bao con vật bị kết liễu cuộc đời mà trước đó chúng không hề được báo trước. Những con vật sắp vào lò vẫn vui với những hạt lúa, hạt bắp, hay bữa ăn rau cám mà không biết khi nào mạng sống mình bị đoạt mất. Con người trong cuộc đời này cũng thế, đam mê dục lạc đến mức không hề hay biết vô thường không hẹn trước. Khi đối mặt với cái chết thì mọi thứ quá muộn màng, chút niềm vui tạm bợ mong manh do dục lạc đem lại không đủ giúp chúng ta vượt qua khổ đau của một kiếp người.

- Các đối tượng ham muốn như gậy nhọn: cây gậy nhọn có nhiều tác dụng trong cuộc sống, thế nhưng nếu không cẩn thận, sơ sẩy một tí thì chính chiếc gậy đó trở lại gây họa cho mình, ví như sử dụng xà beng, càng bén càng dễ đào đất nhưng gây thương tích càng nguy hiểm nếu bất cẩn. Khi thọ dụng các món vật chất, cần thận trọng nếu không muốn chuốc lấy khổ đau lâu dài vì chúng nguy hiểm như gậy nhọn.

- Các đối tượng ham muốn như đầu rắn: ví dụ này được giải thích rất kỹ trong chính bài kinh này. Một người nông dân tìm bắt con rắn nước, do không bắt ở đầu mà bắt ở đuôi hay ở thân giữa nên bị con rắn nước cắn lại người đó đến nỗi bị thương, và có thể nguy hiểm đến tính mạng. Chính vì bắt rắn không đúng phương pháp mà dẫn đến điều đáng tiếc trên. Dụ này dùng để chỉ cho việc thọ dụng dục lạc cần phải có một lập trường, một phong thái, một phương pháp đúng đắn mới không bị dục lạc nắm lấy vị trí làm chủ quay lại hại mình.

Những ví dụ điển hình trên đây cho ta ý niệm rằng, chúng ta vẫn có thể sử dụng những món vật chất thế gian khi có nhu cầu, nhưng cần phải chánh niệm đừng để tâm tham dục trỗi dậy, điều động và chi phối, mà chỉ xem đó chỉ là phương tiện để nuôi thân, để bảo dưỡng tâm và có đủ điều kiện để tiến bộ trên con đường trau giồi tâm linh. Sau mỗi ví dụ, Đức Phật đều nhấn mạnh rằng “do vậy, các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm còn nhiều hơn” để mỗi hành giả khắc ghi điều này trong cuộc sống khi thọ dụng các phương tiện đáp ứng nhu cầu của con người mà vẫn thong dong tự tại. Hạnh phúc không phải do từ bên ngoài đi vào mà được chiết xuất từ bên trong mỗi con người vậy.

Hạnh phúc đích thực đến từ nội tâm

Trong cuộc sống, cái mà con người thực sự cần là hạnh phúc, chứ không phải tài sản. Hạnh phúc là một cảm nhận hoàn toàn chủ quan, được thể hiện qua sự hài lòng, thanh thản, bình yên, chứ không cần quá nhiều tiền bạc vật chất bên ngoài. Để có hạnh phúc, chúng ta cần một đời sống tâm linh phong phú để biết điều phục tâm, tiết chế trong các ham muốn phàm tình, để khi thọ dụng vật chất, không để tâm dính mắc. Đức Phật dạy, không thể tìm thấy hạnh phúc từ lợi dưỡng thế gianhạnh phúc ở ngay trong tâm mỗi con người:

Khó nắm giữ, khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm,
Tâm điều, an lạc đến.
(Pháp cú câu 35)

Ai sớm nhận ra điều này thì ngay lúc ấy, họ nắm giữ chìa khóa để mở cánh cửa hạnh phúc đời mình.

Trên quan điểm này, người dân xứ Bhutan, một đất nước chịu ảnh hưởng sâu sắc truyền thống Phật giáo, thay vì coi GNP (tổng thu nhập quốc gia) là tiêu chí, đã đánh giá sự phát triển của đất nước này bằng một tiêu chí khác là GNH (tổng hạnh phúc quốc gia). Người Bhutan quan niệm rằng một đất nước phát triển là một nước mà người dân có được hạnh phúc. Ý niệm này đã có mặt trên đất nước Bhutan nhỏ bé từ nhiều thế kỷ trước, nhưng phát triển ý tưởng này thành khái niệm ‘tổng hạnh phúc quốc gia’ là sáng kiến của vua Jigme Singye Wangchuck vào năm 1972. 

Khái niệm ‘hạnh phúc’ này được thẩm định trên các yếu tố khách quan và chủ quan, căn cứ trên bốn lãnh vực gồm (i) sự phát triển kinh tế xã hội, (ii) kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, (iii) tôn trọng tất cả các sinh vật, bảo vệ và sống thân thiện với môi trường, và (iv) tổ chức quản lý xã hội để đảm bảo sức khỏe và tuổi thọ cá nhân. Chỉ khi nào có sự phát triển cân đối hài hòa bốn yếu tố này trong cuộc sống, con người mới có được hạnh phúc thật sự và bền vững. Như vậy, sự phát triển kinh tế xã hội, với người dân Bhutan, chỉ là một trong bốn tiêu chí của một cuộc sống hạnh phúc. Giàu có, với họ, vẫn chưa đảm bảo cuộc sống hạnh phúc cho từng cá nhân cũng như cho quốc gia.

Thấm nhuần triết lý Phật giáo trong nếp nghĩ và cách sống của mình, người Bhutan đã có ý thức rất rõ việc bảo vệ và phát triển đất nước nhỏ bé xinh đẹp của họ theo một tiêu chí toàn diện, đa phương bao gồm nhiều phương diện trong cuộc sống chứ không chỉ phát triển kinh tế. Do đó, mặc dù người dân Bhutan còn nghèo về vật chất, họ hài lòng với một cuộc sống mà quan niệm hạnh phúc không chỉ đo lường bằng kinh tế. Mặc dù khổ đau luôn tồn tại ở nhiều hình thức và mức độ khác nhau như là một phần của cuộc sống, người dân Bhutan tìm hạnh phúc trong cuộc sống hài hòa giữa nội tâmngoại cảnh, giữa kinh tế, xã hộivăn hóa tâm linh

phạm vi cá nhân, mỗi người đều có thể kiến tạo cho mình một cuộc sống hạnh phúc trên cơ sở bốn tiêu chí nêu trên của người Bhutan. Từ kết quả nghiên cứuthực tế ở đất nước Bhutan, chúng ta có thể nói rằng, khi tâm con người hướng ngoại với tham vọng chinh phục, hạnh phúc xa vời tầm tay dù giàu có

Ngược lại, khi biết hướng vào nội tâm, lấy đời sống tâm linh làm nền tảng để điều chỉnh những ham muốn của mình, biết hài lòng với những gì họ đang có và nối nhịp cầu hài hòa giữa con người và môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hóa xã hội, họ có thể tạo dựng cuộc sống hạnh phúc lâu dài. Giáo lý Phật giáo về nhân quả, duyên sinhvô thường đã giúp chúng ta hiểu rằng, để có được hạnh phúc thật sự, con người cần phải quay về với bản tâm của mình để có sự bình an nội tại và đặt mình trong mối tương duyên với tất cả các sự vật hiện tượng bên ngoài.

Kiến tạo hạnh phúc đích thực

Khái niệm hạnh phúc của người Bhutan giúp chúng ta suy nghĩ lại rằng, khi người ta đồng hóa hạnh phúc với của cải vật chấtcố công đi tìm thứ hạnh phúc ấy thì oái oăm thay, càng tìm kiếm, hạnh phúc càng xa vời. Nhiều người giàu có, nếu chịu khó suy nghĩ, trong những thăng trầm của cuộc đời, sẽ thấm thía nỗi đau nhân thế và cảm nhận sâu sắc những bất hạnh của người giàu. Có khi tự nghiệm bản thân cùng những mối quan hệ xã hội xung quanh, người trong cuộc cũng có thể nhận ra sự khổ đau và bất hạnh lồ lộ ngay khi vầng hào quang của tiền bạc danh vọng vẫn còn đang tỏa sáng.

Cuộc sống hiện tại đang thay đổi quá nhanh, xu hướng chuộng vật chất như là một trào lưu đang tạo ra những hiểm họa khôn lường mà toàn xã hội đã và đang lên tiếng báo động. Với con người, kinh tế và văn hóa đều cần thiết như hai cánh của một con chim. Chim muốn bay xa và an toàn thì cần cả hai cánh, người muốn hoàn thiệnhạnh phúc không chỉ phát triển kinh tế mà cần phát triển văn hóa, nhất là văn hóa tâm linh. Mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm như một kiến trúc sư của chính cuộc đời mình để trọn quyền quyết định hạnh phúc hay khổ đau cho bản thân

Người Bhutan đã biết sống theo triết lý đạo Phật để được hạnh phúc, dù họ chưa giàu có về kinh tế. Tại sao chúng ta lại không áp dụng tinh thần đạo Phật để cuộc sống thêm ý nghĩathanh thoát hơn? 

 Liên Trí

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Argyle, M. (1999). Causes and correlates of happiness. In D. Kahneman, E. Diener & N. Schwarz (eds). Well-Being: The foundations of hedonic psychology. New York: Russell Sage.

Duesenberry, J. (1949). Income, Savings, and the Theory of Human Behavior. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Easterbrook, G. (2003). The Progress paradox: How life gets better while people feel worse. New York: Random House.

Easterlin, R. A. (1974). Does economic growth improve the human lot? Some empirical evidence. In P. A. David & M. W. Reder, eds., Nations and households in economic growth. New York: Academic Press.

Easterlin, R. A. (2003). Explaining happiness. Proceedings of the National Academy of Sciences100 (19), 11176–83.

Schor, J. (1998). The Overspent american: why we want what we don’t need. New York: Basic Books.

Veblen, T. (1967). The Theory of the leisure class. New York: Viking Penguin.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 58)
Là một công dân, bạn có thể trở nên dễ phục tùng các mệnh lệnh, sẵn sàng nhượng bộ các quyền của bạn hơn vì những lời hứa mơ hồ về sự an toàn.
(Xem: 50)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 69)
Đã xuất gia thì không ai là người ác cả, ác Tỷ kheo dùng để chỉ cho những người xuất gia tiến bộ chậm, chưa chuyển hóa các tập khí xấu ác của chính mình.
(Xem: 90)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 177)
Hiện tại chính là thời kỳ mạt pháp, pháp đã đến đoạn cuối của nó. Phần đông không chú trọng vào sự tu hành,
(Xem: 203)
Hôm nọ lúc Đức Thế Tôn đang giảng dạy ở tu viện Kỳ Viên, có một ông say rượu loạng quạng đi vô và nói "Thế Tôn, Con muốn xuất gia đi tu".
(Xem: 216)
Bốn mươi lăm năm thuyết pháp, Đức Phật đã dày công thiết lập nên lộ trình TU CHỨNG duy nhất, là VĂN - TƯ - TU.
(Xem: 195)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 225)
Chữ “tu” có nghĩa là “sửa đổi” hay “thay đổi”. Sửa chữa những hành vi bất thiện sai lầm để bản thân trở nên tốt đẹp và lương thiện hơn.
(Xem: 262)
Đức Phật đến với cuộc đời không gì khác ngoài chỉ bày cho con người một nếp sống hạnh phúc an lạc.
(Xem: 235)
Chết an lành là mong mỏi to lớn và sau cùng của một kiếp nhân sinh. Ngoài đời hằng mong sinh thuận tử an.
(Xem: 231)
Pháp giới là vũ trụ được các bậc giác ngộ chứng ngộ.
(Xem: 431)
Một số bài pháp hay nhất mà tôi từng nghe là những bài pháp của Đức Phật.
(Xem: 257)
Huyền thoại truyền thống về cuộc đơi Đức Phật kể lại rằng trong suốt thời niên thiếu và vào tuổi trưởng thành, thái tử Siddhattha
(Xem: 372)
Xã hội ngày nay, đời sống hiện đại phần nào làm con người bị cuốn vào guồng xoay vật chất như “thiêu thân”.
(Xem: 301)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 288)
Ái là tâm yêu thích. Người đời thì yêu thích nhiều thứ nên biển ái mênh mông.
(Xem: 267)
Chánh kiến là thấy biết đúng sự thật. Thấy biết về thiện và bất thiện, căn bản của thiện và bất thiện;
(Xem: 376)
Thiền sư Sawaki luôn nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc hành thiền hơn là học kinh sách hay tham công án.
(Xem: 376)
Cách đây hơn 2500 năm trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng dự ngôn
(Xem: 563)
“Sinh ra, tồn tại, suy biến và hoại diệt trong từng thoáng chốc. Thế gian được thấy như thế...”
(Xem: 361)
Một trong những giả định đằng sau Phật giáo đương đại (Contemporary Buddhism) là 'thông điệp' của Phật giáo có thể truyền đến...
(Xem: 628)
Con đường Bồ tát gồm hai sự tích tập trí huệ và tích tập công đức. Hai sự tích tập này đầy đủ thì được gọi là Lưỡng Túc Tôn, bậc hai sự đầy đủ, tức là một vị Phật.
(Xem: 394)
Có người nói thế giới này hư hoại, thật ra thế giới không có hư hoại. Vậy thì cái gì hư hoại?
(Xem: 425)
Buông bỏ là một hạnh lành, không phải người nào cũng làm được. Xả bỏ được bao nhiêu thì nhẹ nhàng và thong dong bấy nhiêu.
(Xem: 585)
Nhân dịp Năm Mới, tôi xin cảm ơn tất cả những người đã gửi cho tôi những lời chúc tốt đẹp, và tôi xin gửi lời chào đến tất cả chư Huynh Đệ trên khắp thế giới.
(Xem: 493)
Trong lịch sử dân tộc Việt Nam, vị thủy tổ đầu tiên về nguồn gốc của dân tộc Việt Nam là...
(Xem: 415)
Theo truyền thuyết, rồng là loài vật linh thiêng, có thần thông, có khả năng làm mưa, phun ra khói, lửa, thăng, giáng, ẩn, hiện, biến hóa lớn nhỏ một cách tự tại.
(Xem: 722)
Trí tuệ giống như ánh sáng, và có ba cấp độ:
(Xem: 460)
Chúng ta thường nghe dặn dò rằng, hãy tu đi, đừng nói nhiều, đừng lý luận nhiều, đừng dựa vào chữ nghĩa biện biệt sẽ dễ loạn tâm
(Xem: 527)
Trước khi tìm hiểu chủ đề “Nương thuyền Bát nhã là gì? ”, chúng ta cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa của từ Bát nhã.
(Xem: 465)
Từ “Phật” (Buddha) đã được biết đến và lưu truyền trước khi Đức Phật xuất hiệnẤn Độ.
(Xem: 462)
Đức Phật, Ngài là con người, bằng xương bằng thịt, như bao nhiêu con người khác...nhưng Ngài là một con người giác ngộ, tỉnh thức...
(Xem: 479)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 482)
Trời có lúc nắng lúc mưa, người có lúc may mắn hoặc xui xẻo. Nhưng không có cái gì tự dưng sinh ra hay mất đi, tất cả đều có lý do của do của nó.
(Xem: 412)
Ajaan Dune Atulo (1888-1983) sinh ngày 4 tháng 10/1888 tại làng Praasaat, huyện Muang, tỉnh Surin. Năm 22 tuổi ngài xuất gia ở tỉnh lỵ.
(Xem: 539)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 875)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 902)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 737)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1085)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 550)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 518)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 597)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 619)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 593)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 588)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 757)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 653)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 797)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant