Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Giàu CóHạnh Phúc

29 Tháng Sáu 201616:46(Xem: 8815)
Giàu Có Và Hạnh Phúc

GIÀU CÓHẠNH PHÚC

Liên Trí

GIẦU CÓ VÀ HẠNH PHÚC

 

Thông thường, rất nhiều người trong chúng ta nghĩ rằng một người giàu có thường là người hạnh phúc, hay ít ra, họ dễ có cuộc sống hạnh phúc hơn người khác. Vì tin như thế, trong cuộc sống, chúng ta lao vào làm giàu và làm giàu không mệt mỏi để thực hiện khát vọng hạnh phúc của mình. Thế nhưng, kết quả nghiên cứu trong nhiều năm qua cho thấy rằng, sự thật không hẳn như vậy.

Trong một nghiên cứu ở Mỹ, Easterbrook (2003) cho thấy rằng mặc dù với thu nhập cao hơn, các dịch vụ y tế tiện nghi hơn và giáo dục ngày càng tốt hơn so với những năm trước, người ta vẫn cảm thấy rằng họ kém hạnh phúc hơn trước. Như vậy, sự giàu có về của cải vật chấtyếu tố cần thiết để duy trì cuộc sống cho tất cả con người chúng ta, nhưng nó không đủ để đảm bảo một cuộc sống hạnh phúc.

Người kỳ công nghiên cứu trong nhiều thập niên về lĩnh vực này là Easterlin. Trong một thời gian dài (từ năm 1974 đến năm 2003), Easterlin đã thực hiện 30 nghiên cứu thống kê ở 19 nước và đi đến kết luận rằng, khi những nhu cầu căn bản như ăn, mặc, ở và y tế được đáp ứng, sự giàu có không liên quan đến mức độ hạnh phúc trong cuộc sống. Kết quả các nghiên cứu này tưởng chừng khó tin đối với nhiều người trong chúng ta khi kết luận rằng sự giàu có không đảm bảo cho chủ nhân nó một đời sống hạnh phúc.

Tại sao giàu có chưa chắc đem lại hạnh phúc?

Một số nghiên cứu khác cũng đưa ra kết quả tương tựcố gắng tìm nguyên nhân để lý giải tại sao người lắm tiền nhiều của lại không có hạnh phúc. Theo nghiên cứu của Argyle (1999), những người giàu thường có ham muốn giàu có hơn và chính lòng ham muốn ấy làm cho họ ít được hạnh phúc trọn vẹnbền vững.

Duesenberry (1949) làm một cuộc khảo sát, lấy ý kiến trong công chúng ở Mỹ vào thập niên 40 của thế kỷ XX, kết luận rằng những người có thu nhập cao có động cơ phải có thu nhập cao hơn nữa mới có thể làm cho những người thân trong gia đình hạnh phúc. Đồng thời, họ cũng có tâm lý bất an thường trực trong tâm, khi đồng hóa chính bản thân mình với của cải vật chất và bao phủ mình với những thứ hào nhoáng bên ngoài để tạo hình ảnh giàu có trong mắt người khác. 

Veblen (1967) thực hiện một nghiên cứukết luận rằng, người giàu có coi việc tiêu xài là một tiêu chí để xác định vị trí xã hội của mình. Vì sĩ diện, sự cạnh tranh trong mua sắm và chi xài của những người có thu nhập cao cũng tạo nên tâm lý không bình an cho những người dư ăn dư để này. Mấy thập niên sau, trong một thống kê của mình, Schor (1998) cho thấy rằng, hơn nửa dân số Mỹ, nơi số lượng người giàu có nhiều nhất thế giới, nói rằng họ không thể nào thỏa mãn được mọi thứ họ cần và họ cảm thấy không có hạnh phúc trọn vẹncảm giác ‘chưa đủ’ này.

Những công trình nghiên cứu được trưng dẫn ở trên cho chúng ta một kết luận thuyết phục rằng, sự giàu có không đủ để đảm bảo một cuộc sống bình anhạnh phúc. Với mớ của cải vật chất dù rất nhiều trong tay, người giàu vẫn không hạnh phúc. Trong khi người nghèo thiếu hạnh phúc vì các nhu cầu căn bản để duy trì sự sống chưa được thỏa mãn, người giàu, những tưởng họ hạnh phúclắm tiền của, thì lại khổ vì lòng mong cầu không biết đủ. 

Chính lòng ham muốn làm cho con người khổ. Đây là ‘căn bệnh’ khó chữa và nếu để tâm lý này phát triển tự nhiên, nó sẽ không có giới hạn mà ta quen gọi là “lòng tham vô đáy”. Người bị tâm tham thúc bách không thể nào nếm được hương vị hạnh phúc thật sự dù sống trên cả núi vàng. Ham muốn của con ngườimuôn thuở và không bao giờ được thỏa mãnchính tâm lý ‘không thỏa mãn’ làm con người cứ mãi khổ đau và bất an. Chỉ khi nào ý thức được hạnh phúc tỷ lệ nghịch với lòng ham muốn, con người mới biết cách tạo dựng hạnh phúc cho mình.

Khéo thọ dụng để được hạnh phúc

Những kết quả nghiên cứu này hoàn toàn phù hợp với lời Đức Phật dạy cách đây hai mươi sáu thế kỷ, rằng “các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, do vậy nguy hiểm càng nhiều hơn” (Trung bộ kinh số 22: Kinh ví dụ con rắn). Đức Phật dùng nhiều ví dụ rất sinh động để diễn tả sự khổ đau do tâm tham dục gây nên: ham muốn được ví như khúc xương, như miếng thịt, như bó đuốc cỏ khô, như hố than hừng, như cơn mộng, như vật dụng cho mượn, như trái cây, như lò thịt, như gậy nhọn, như đầu rắn. Sẽ không có ấn tượng nhiều nếu chúng ta chỉ đọc qua mười hình ảnh này. Tuy nhiên, khi phân tích kỹ, chúng ta thật ấn tượng đến mức nó đủ mạnh để đánh động tâm lý của mỗi người, dần nhẹ bớt và bỏ đi tham dục nếu muốn có được hạnh phúc thật sự.

- Các đối tượng của ham muốn như khúc xương: Qua sớ giải kinh Trung bộ, chúng ta hiểu hơn về cách sử dụng hình ảnh minh họa của Đức Phật. Khi dùng hình ảnh khúc xương để ví cho ham muốn, Đức Phật muốn chúng ta cảm nhận sự vô dụng, vất vả và hoài công của một con chó đói lả và suy nhược ôm gặm một khúc xương đã lóc sạch thịt, chỉ còn xương trắng, dính tí máu và bay chút mùi thịt còn sót lại. Cứ thế, con chó gặm tới, gặm lui, lật qua, lật lại khúc xương đến mệt nhoài mà không no được tí nào. Dù vậy, con chó không thể quăng đi khúc xương. Nó có một sự hấp dẫn mà con chó không dễ dàng từ bỏ. Người nhiều ham muốn cũng vậy. Bản chất của ham muốn là khổ đau chứ không phải hạnh phúc, vậy mà con người không biết buông bỏ đúng pháp để có hạnh phúc.

- Các đối tượng của ham muốn như miếng thịt: miếng thịt là đối tượng để tranh giành và là nguồn gốc của hiểm nguy, đau khổ. Khi một con chim giành được miếng thịt liền muốn giữ lấy cho riêng mình mà bay bổng lên không trung, trong khi những con chim khác cũng đang cố tìm mồi. Vì vậy, chúng đuổi theo để tranh giành miếng thịt. Chúng đánh nhau, cấu xé lẫn nhau, để được miếng mồi, bất chấp nguy hiểm, thương vong, thậm chí đổi lấy tính mạng cốt chỉ để giữ được miếng mồi và đoạt được miếng mồi. Ở con người cũng vậy, mọi tranh giành quyền lợi cá nhân cho đến chiến tranh xảy ra đều bắt nguồn từ lòng tham. Mọi xung đột với nhau, chiến tranh và chết chóc không ngừng xảy ra trên cuộc đời này khi con người còn khát vọng chiếm hữu sai lầm và ngỡ rằng nếu thành tựu, họ sẽ có hạnh phúc. An lạc, hạnh phúc chỉ có mặt trên thế giới này khi và chỉ khi con người bỏ đi quan niệm sai lầm rằng hạnh phúc có thể tìm thấy từ sự chiếm hữusở hữu vật chất, cũng như con chim chỉ được yên thân khi nó vứt bỏ được miếng mồi kia, đó là thông điệp của Đức Phật trao gởi qua ẩn dụ này.

- Các đối tượng của ham muốn như bó đuốc cỏ khô: cỏ khô là vật liệu rất dễ gây cháy, bắt lửa mạnh. Một người cầm bó đuốc cỏ đang cháy rực mà đi ngược gió thì rất là nguy hiểm, lửa sẽ tạt vào phía mình và người ấy đã bị cháy tay, cháy mặt và các bộ phận khác, bỏng nặng và có thể dẫn đến tử vong. Người không có trí tuệ, tham đắm dục lạc cũng như vậy, tự rước họa vào mình, đến khi nhận ra vấn đề thì đã quá trễ.

- Các đối tượng của ham muốn như hố than hừng: Ẩn dụ này được giải thích tỉ mỉ ở kinh số 75: kinh Magandiyacủa Trung bộ kinh, rằng có một người bị bệnh cùi thân thể lở lói, các loài trùng đục khoét các vết thương. Để dịu đi cơn ngứa, người này hơ đốt thân mình trên hố than hừng cháy, nhờ đó cảm thấy dễ chịu, thỏa thích, đã ngứa. Tuy nhiênnguyên nhân ấy mà các vết thương càng đau nhức, càng lở lói và không thể nào lành được, bệnh tình người ấy sẽ trở nên trầm trọng suýt chết và cũng có thể dẫn đến cái chết. Sự thỏa thích dễ chịu nhờ hố than hừng như vậy đã đồng nghĩa với sự hiểm nguy. Người lòng nhiều ham muốn thì “càng thâu càng đắm, càng làm càng say” (Ni trưởng Huỳnh Liên- Thân) mà không hề ý thức được đó là nguồn gốc của khổ đau.

- Các đối tượng ham muốn như giấc mộng: những gì ta thấy trong mơ thường đẹp đẽ, lung linh, khi thức giấc thì thực tế không còn gì. Ham muốn vật chất chẳng khác nào chơi trò cút bắt và cái ta được là cái bóng của hạnh phúc cứ vờn trước mặt, còn mình thì mệt nhoài và cái kết là đắng cay đau khổ.

- Các đối tượng ham muốn như vật mượn xài: vật đi mượn để dùng xài rồi phải trả, khi trả xong, không còn gì là của mình. Nếu ai lầm chấp vật mượn là của mình, sẽ hụt hẫng, khổ đau. Nếu chấp vật chất thế gian là của mình, một khi vô thường biến hoại diễn ra, ta chịu nhiều đau khổ, căng thẳng, bất ansầu muộn.

- Các đối tượng ham muốn như trái cây: trái cây thu hút nhiều người đến, thế là họ thi nhau hái bằng mọi cách, rồi họ mang theo cả rựa, búa chặt luôn cả cây để hái được nhiều trái, rồi nhánh cây, gốc cây bật đè bị thương, gãy tay gãy chân, có khi đến chết. Sự ham muốn trái cây không hề đem lại cho người ham muốn chút an ổn nào cả. Người đam mê dục lạc cũng tự chuốc lấy nguy hiểm, bất anđau khổ.

- Các đối tượng ham muốn như lò thịt: nơi lò thịt, bao con vật bị kết liễu cuộc đời mà trước đó chúng không hề được báo trước. Những con vật sắp vào lò vẫn vui với những hạt lúa, hạt bắp, hay bữa ăn rau cám mà không biết khi nào mạng sống mình bị đoạt mất. Con người trong cuộc đời này cũng thế, đam mê dục lạc đến mức không hề hay biết vô thường không hẹn trước. Khi đối mặt với cái chết thì mọi thứ quá muộn màng, chút niềm vui tạm bợ mong manh do dục lạc đem lại không đủ giúp chúng ta vượt qua khổ đau của một kiếp người.

- Các đối tượng ham muốn như gậy nhọn: cây gậy nhọn có nhiều tác dụng trong cuộc sống, thế nhưng nếu không cẩn thận, sơ sẩy một tí thì chính chiếc gậy đó trở lại gây họa cho mình, ví như sử dụng xà beng, càng bén càng dễ đào đất nhưng gây thương tích càng nguy hiểm nếu bất cẩn. Khi thọ dụng các món vật chất, cần thận trọng nếu không muốn chuốc lấy khổ đau lâu dài vì chúng nguy hiểm như gậy nhọn.

- Các đối tượng ham muốn như đầu rắn: ví dụ này được giải thích rất kỹ trong chính bài kinh này. Một người nông dân tìm bắt con rắn nước, do không bắt ở đầu mà bắt ở đuôi hay ở thân giữa nên bị con rắn nước cắn lại người đó đến nỗi bị thương, và có thể nguy hiểm đến tính mạng. Chính vì bắt rắn không đúng phương pháp mà dẫn đến điều đáng tiếc trên. Dụ này dùng để chỉ cho việc thọ dụng dục lạc cần phải có một lập trường, một phong thái, một phương pháp đúng đắn mới không bị dục lạc nắm lấy vị trí làm chủ quay lại hại mình.

Những ví dụ điển hình trên đây cho ta ý niệm rằng, chúng ta vẫn có thể sử dụng những món vật chất thế gian khi có nhu cầu, nhưng cần phải chánh niệm đừng để tâm tham dục trỗi dậy, điều động và chi phối, mà chỉ xem đó chỉ là phương tiện để nuôi thân, để bảo dưỡng tâm và có đủ điều kiện để tiến bộ trên con đường trau giồi tâm linh. Sau mỗi ví dụ, Đức Phật đều nhấn mạnh rằng “do vậy, các dục vui ít, khổ nhiều, não nhiều, sự nguy hiểm còn nhiều hơn” để mỗi hành giả khắc ghi điều này trong cuộc sống khi thọ dụng các phương tiện đáp ứng nhu cầu của con người mà vẫn thong dong tự tại. Hạnh phúc không phải do từ bên ngoài đi vào mà được chiết xuất từ bên trong mỗi con người vậy.

Hạnh phúc đích thực đến từ nội tâm

Trong cuộc sống, cái mà con người thực sự cần là hạnh phúc, chứ không phải tài sản. Hạnh phúc là một cảm nhận hoàn toàn chủ quan, được thể hiện qua sự hài lòng, thanh thản, bình yên, chứ không cần quá nhiều tiền bạc vật chất bên ngoài. Để có hạnh phúc, chúng ta cần một đời sống tâm linh phong phú để biết điều phục tâm, tiết chế trong các ham muốn phàm tình, để khi thọ dụng vật chất, không để tâm dính mắc. Đức Phật dạy, không thể tìm thấy hạnh phúc từ lợi dưỡng thế gianhạnh phúc ở ngay trong tâm mỗi con người:

Khó nắm giữ, khinh động,
Theo các dục quay cuồng.
Lành thay, điều phục tâm,
Tâm điều, an lạc đến.
(Pháp cú câu 35)

Ai sớm nhận ra điều này thì ngay lúc ấy, họ nắm giữ chìa khóa để mở cánh cửa hạnh phúc đời mình.

Trên quan điểm này, người dân xứ Bhutan, một đất nước chịu ảnh hưởng sâu sắc truyền thống Phật giáo, thay vì coi GNP (tổng thu nhập quốc gia) là tiêu chí, đã đánh giá sự phát triển của đất nước này bằng một tiêu chí khác là GNH (tổng hạnh phúc quốc gia). Người Bhutan quan niệm rằng một đất nước phát triển là một nước mà người dân có được hạnh phúc. Ý niệm này đã có mặt trên đất nước Bhutan nhỏ bé từ nhiều thế kỷ trước, nhưng phát triển ý tưởng này thành khái niệm ‘tổng hạnh phúc quốc gia’ là sáng kiến của vua Jigme Singye Wangchuck vào năm 1972. 

Khái niệm ‘hạnh phúc’ này được thẩm định trên các yếu tố khách quan và chủ quan, căn cứ trên bốn lãnh vực gồm (i) sự phát triển kinh tế xã hội, (ii) kế thừa và phát huy truyền thống văn hóa dân tộc, (iii) tôn trọng tất cả các sinh vật, bảo vệ và sống thân thiện với môi trường, và (iv) tổ chức quản lý xã hội để đảm bảo sức khỏe và tuổi thọ cá nhân. Chỉ khi nào có sự phát triển cân đối hài hòa bốn yếu tố này trong cuộc sống, con người mới có được hạnh phúc thật sự và bền vững. Như vậy, sự phát triển kinh tế xã hội, với người dân Bhutan, chỉ là một trong bốn tiêu chí của một cuộc sống hạnh phúc. Giàu có, với họ, vẫn chưa đảm bảo cuộc sống hạnh phúc cho từng cá nhân cũng như cho quốc gia.

Thấm nhuần triết lý Phật giáo trong nếp nghĩ và cách sống của mình, người Bhutan đã có ý thức rất rõ việc bảo vệ và phát triển đất nước nhỏ bé xinh đẹp của họ theo một tiêu chí toàn diện, đa phương bao gồm nhiều phương diện trong cuộc sống chứ không chỉ phát triển kinh tế. Do đó, mặc dù người dân Bhutan còn nghèo về vật chất, họ hài lòng với một cuộc sống mà quan niệm hạnh phúc không chỉ đo lường bằng kinh tế. Mặc dù khổ đau luôn tồn tại ở nhiều hình thức và mức độ khác nhau như là một phần của cuộc sống, người dân Bhutan tìm hạnh phúc trong cuộc sống hài hòa giữa nội tâmngoại cảnh, giữa kinh tế, xã hộivăn hóa tâm linh

phạm vi cá nhân, mỗi người đều có thể kiến tạo cho mình một cuộc sống hạnh phúc trên cơ sở bốn tiêu chí nêu trên của người Bhutan. Từ kết quả nghiên cứuthực tế ở đất nước Bhutan, chúng ta có thể nói rằng, khi tâm con người hướng ngoại với tham vọng chinh phục, hạnh phúc xa vời tầm tay dù giàu có

Ngược lại, khi biết hướng vào nội tâm, lấy đời sống tâm linh làm nền tảng để điều chỉnh những ham muốn của mình, biết hài lòng với những gì họ đang có và nối nhịp cầu hài hòa giữa con người và môi trường thiên nhiên cũng như môi trường văn hóa xã hội, họ có thể tạo dựng cuộc sống hạnh phúc lâu dài. Giáo lý Phật giáo về nhân quả, duyên sinhvô thường đã giúp chúng ta hiểu rằng, để có được hạnh phúc thật sự, con người cần phải quay về với bản tâm của mình để có sự bình an nội tại và đặt mình trong mối tương duyên với tất cả các sự vật hiện tượng bên ngoài.

Kiến tạo hạnh phúc đích thực

Khái niệm hạnh phúc của người Bhutan giúp chúng ta suy nghĩ lại rằng, khi người ta đồng hóa hạnh phúc với của cải vật chấtcố công đi tìm thứ hạnh phúc ấy thì oái oăm thay, càng tìm kiếm, hạnh phúc càng xa vời. Nhiều người giàu có, nếu chịu khó suy nghĩ, trong những thăng trầm của cuộc đời, sẽ thấm thía nỗi đau nhân thế và cảm nhận sâu sắc những bất hạnh của người giàu. Có khi tự nghiệm bản thân cùng những mối quan hệ xã hội xung quanh, người trong cuộc cũng có thể nhận ra sự khổ đau và bất hạnh lồ lộ ngay khi vầng hào quang của tiền bạc danh vọng vẫn còn đang tỏa sáng.

Cuộc sống hiện tại đang thay đổi quá nhanh, xu hướng chuộng vật chất như là một trào lưu đang tạo ra những hiểm họa khôn lường mà toàn xã hội đã và đang lên tiếng báo động. Với con người, kinh tế và văn hóa đều cần thiết như hai cánh của một con chim. Chim muốn bay xa và an toàn thì cần cả hai cánh, người muốn hoàn thiệnhạnh phúc không chỉ phát triển kinh tế mà cần phát triển văn hóa, nhất là văn hóa tâm linh. Mỗi cá nhân đều chịu trách nhiệm như một kiến trúc sư của chính cuộc đời mình để trọn quyền quyết định hạnh phúc hay khổ đau cho bản thân

Người Bhutan đã biết sống theo triết lý đạo Phật để được hạnh phúc, dù họ chưa giàu có về kinh tế. Tại sao chúng ta lại không áp dụng tinh thần đạo Phật để cuộc sống thêm ý nghĩathanh thoát hơn? 

 Liên Trí

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Argyle, M. (1999). Causes and correlates of happiness. In D. Kahneman, E. Diener & N. Schwarz (eds). Well-Being: The foundations of hedonic psychology. New York: Russell Sage.

Duesenberry, J. (1949). Income, Savings, and the Theory of Human Behavior. Cambridge, MA: Harvard University Press.

Easterbrook, G. (2003). The Progress paradox: How life gets better while people feel worse. New York: Random House.

Easterlin, R. A. (1974). Does economic growth improve the human lot? Some empirical evidence. In P. A. David & M. W. Reder, eds., Nations and households in economic growth. New York: Academic Press.

Easterlin, R. A. (2003). Explaining happiness. Proceedings of the National Academy of Sciences100 (19), 11176–83.

Schor, J. (1998). The Overspent american: why we want what we don’t need. New York: Basic Books.

Veblen, T. (1967). The Theory of the leisure class. New York: Viking Penguin.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 15560)
Một nỗi buồn nhớ vu vơ xâm chiếm tâm hồn, tôi nhận ra vô thường trong từng sát na... Trần Thị Nhật Hưng
(Xem: 11587)
Người Cha đầu tiên của Việt Nam là vua Lạc Long Quân, thuộc giống Rồng mang họ Hồng Bàng, sắc dân Lạc Việt, gặp Mẹ Việt Nam là bà Âu Cơ, thuộc giống Tiên.
(Xem: 13478)
Hứa hẹn sẽ vượt qua mọi trở ngại để giữ gìn và phát triển các khóa tu học Phật pháp mỗi năm một lần vào mùa nghỉ lễ Phục Sinh... Thích Hạnh Tuệ
(Xem: 7825)
Ai đã từng trải qua nhiều khắc khoải, khổ đau trong cuộc sống mà vẫn có lòng tốt và sự nhiệt tình, là nấc thang thăng tiến của các bậc hiền Thánh trong dòng đời nghiệt ngã...
(Xem: 12652)
Ở xứ Đức nầy mỗi năm thời tiết được chia ra làm 4 mùa rõ rệt. Mùa Đông khởi đi từ hạ tuần tháng 12 và chấm dứt vào hạ tuần tháng 3... HT Thích Như Điển
(Xem: 12743)
Đặc biệt là các thiên tài xuất chúng siêu việt như Phạm Công Thiện, Tuệ Sỹ, Lê Mạnh Thát, nổi bật nhất là Bùi Giáng, một thi sĩ kỳ dị... Tâm Nhiên
(Xem: 14586)
Hướng về rặng núi xa, đồi cây xanh, Thầy quảy trên vai hai túi đồ, có lẽ một túi đựng đồ dùng cá nhân và túi kia là y hậu, đôi cuốn sách đọc... Nguyên Siêu
(Xem: 15457)
Lời Thầy nói giống như hạnh nguyện độ sinh của Bồ Tát hóa thân vào đời ác năm trược, nơi nào có khổ đau, nơi đó có Bồ Tát... Nguyên Siêu
(Xem: 12091)
Cô không có ấn tượng gì về mẹ ruột của mình, lúc mẹ cô bỏ nhà ra đi cô còn quá nhỏ, hai tuổi là cái tuổi không có ký ức đối với một đứa bé...
(Xem: 13742)
Năm tôi lên 10 tuổi, bố mua về cho một con búp bê. Đó là món quà đầu tiên trong đời tôi nhận được khi kết thúc lớp 4 với kết quả học sinh giỏi.
(Xem: 13961)
Có thể cháu không hiểu hoặc không nhớ được mọi thứ, nhưng khi cháu đọc, sách sẽ thay đổi cháu từ bên trong tâm hồn...
(Xem: 11517)
Thủa nhỏ, tôi được dạy rằng, phải sống trung thực không dối trá với bản thân mình và với mọi người vì đó là con đường sáng duy nhất của kiếp người.
(Xem: 15311)
Không biết khởi sự tự bao giờ và do đâu, ngay từ thuở còn thanh xuân mới vào đời thì thi nhân đã rơi xuống nguồn mạch sầu bi thiết...
(Xem: 12948)
Nhờ ánh sáng vô lượng của Đức Phật sẽ dắt ta ra khỏi chốn tử sinh và qua lực từ bi của Đức Phật, chúng ta sẽ được thăng hoa trong cuộc sống... HT Thích Như Điển
(Xem: 11645)
Đức Phật đã từng nói: “Nếu nước đại dương chỉ có một vị mặn thì đạo lý của ta chỉ có một vị duy nhấtgiải thoát.”
(Xem: 16868)
Chùa Hải Đức ở số 51 đường Hải Đức, phường Phương Sơn, phía Tây thành phố Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa. Đường lên chùa là một con dốc dài... Hồ Văn Tâm
(Xem: 20012)
Giao thừa ta đốt trầm hương ngát, Xin những bàn tay xích lại cùng. Thung Lũng Hoa Vàng xuân mới nở, Cùng nhau dựng lại một quê hương.
(Xem: 15965)
Hàng ngàn năm trước tây lịch, khi thổ dân Dravidian còn ngự trị khắp lãnh thổ Ấn Độ cổ thời, vùng phía tây Hy Mã Lạp Sơn là lãnh địa của rắn. Huỳnh Kim Quang
(Xem: 13173)
Năm sau, Ba đã ngoài 80 tuổi và vẫn muốn về Quê thăm nơi chôn nhau cắt rốn... Bạch Xuân Phẻ
(Xem: 13116)
Giác ngộ không phải là cầu toàn, mong đạt được điều như ý, vì càng cầu toàn thì càng thêm đau khổ thất vọng, mà là cần thấy ra bản chất bất toàn của cuộc sống.
(Xem: 13141)
Ngày 14/12/2012 vừa qua một cuộc thảm sát thương tâm đã xảy ra tại trường tiểu học Sandy Hook thuộc thị trấn Newtown của nước Mỹ... Thích Pháp Lưu
(Xem: 15595)
Nếu chúng ta là những người con Phật có Trí Huệ thì đừng bao giờ giận hờn một sự thật đã xảy ra cả. Bất chấp sự thật nó oan trái oái ăm làm phật lòng ta...
(Xem: 12289)
Những ngày tháng mầu nhiệm - Kỷ niệm lần tịnh tu nhập thất thứ 10 trên núi đồi Đa Bảo, vùng Blue Mountain ngày 22 tháng 11 năm 2012. Thích Như Điển
(Xem: 13110)
Ngưỡng mong Hòa Thượng hồi nhập ta bà để tiếp tục dìu đỡ chúng con trên bước đường tu học.
(Xem: 15746)
“Người biết sống một mình” là người “không tìm về quá khứ, không tưởng tới tương lai, quá khứ đã không còn, tương lai thì chưa tới...”
(Xem: 13840)
Trong cuộc bể dâu này tôi linh cảm ra điều thiêng liêng rằng mẹ hiền của tôi vẫn luôn luôn hiện hữu ở bên tôi!
(Xem: 15085)
Người trí có thể chuyển cái mà thế gian cho là họa thành phước, và làm tăng trưởng, phát triển to lớn hơn cái mà thế gian cho là phước đang có.
(Xem: 13798)
Truyền thống lễ Tạ Ơn của người Hoa Kỳ rất đẹp, không mang tính chất chính trị, không dành riêng cho một tôn giáo hay để tưởng niệm một cá nhân nào.
(Xem: 13849)
Lịch sử, nhất lại là lịch sử xa xưa, phần lớn là một sự pha trộn của nhiều chuyện có thật và không có thật, của những sự Thật (Truths) và những Huyền thoại...
(Xem: 13039)
Ngày Hiệp Kỵ muôn phương đều câu hội, Vượt năm châu, bốn biển kéo nhau về, Nghĩa Linh Sơn cốt nhục vẹn ước thề, Tình pháp lữ không bao giờ suy suyễn. Tịnh Tuệ
(Xem: 13733)
Yêu thương, hy sinhrộng lượng chỉ thật sự có ý nghĩa khi nào có một gợn sóng dấy lên hay một chút gì đó khác biệt mà thôi.
(Xem: 13601)
Sự thật cho thấy, mọi sinh vật hiện hữu trên thế gian này đều phải nương tựa vào nhau để được tồn tại và đứng vững điển hình như hai bó lau.
(Xem: 15288)
Anh luôn ghi lòng tạc dạthực hành lời căn dặn của sư phụ: “Tránh đại ngôn sẽ ngừa được khẩu nghiệp, Nhẫn nhục sẽ ngừa được thân nghiệp...
(Xem: 14693)
Tôi đặt tình yêu thương và sự tử tế vào trong suy nghĩ, trên đôi mắt và dưới cái miệng để lòng tôi được trong veo, con mắt tôi nhìn đời trìu mến...
(Xem: 13858)
Một sáng vừa hé mắt nhìn ra khung cửa ta thấy ánh bình minh đang chờ ở bên ngoài. Chỉ một đêm xa cách, ánh sáng của mặt trời lại trở về với mọi người.
(Xem: 14164)
Cười thật an, thật tươi (như hoa nở) để chào đón giây phút hiện tại ta còn sống là một quán niệm mang ý nghĩa tôn trọngbiết ơn sự sống tự thân của mình...
(Xem: 13399)
Chúng ta hãy nên học theo hạnh lắng nghe của Bồ tát Quán Thế Âm, sẵn sàng chia vui, sớt khổ vì lợi ích tha nhân, sẵn sàng chấp nhận khổ đau để mọi người được an vui...
(Xem: 13376)
Mặc Giang đã đem đến cho độc giả những vần thơ nhân bản sâu sắc nói lên sự vô thường giả tạm, mong manh để tìm ra cái lẽ chơn thường của cuộc đời.
(Xem: 14600)
Thực ra, phiền não khổ đau chỉ xuất hiện khi ta ước muốn chiếm hữu, nắm giữ các đối tượng ưa thích hoặc loại trừ những gì mình không mong muốn.
(Xem: 13821)
Lòng tốt, sự nhiệt tình nếu không đi cùng hiểu biết thì mọi việc sẽ khó thành tựu, khó có lợi ích thiết thực.
(Xem: 14957)
Sự dối trá không chỉ ở nghĩa thông thường là nói dối hay làm dối, mà còn bao hàm cả việc biết người khác đang gặp nguy hiểm mà không giúp.
(Xem: 17663)
Trong các phiền não của thế gian, nóng tính, giận dữ hay sân hận là những kẻ thù nguy hiểm có sức tàn phá công đức khủng khiếp nhất.
(Xem: 14438)
Phật tánh cũng lại ở ngay trong tự tâm ta. Không ở ngoài đến. Ai cũng sẵn có. Cho nên ai cũng sẽ là Phật, một khi “Thức tự tâm chúng sanh thì sẽ kiến tự tâm Phật tánh”.
(Xem: 16821)
Những độc tố của tham muốn, giận hờn và si mê tuông ra từ tâm thức của chúng ta, sẽ được tẩy rửa thanh tịnh bằng sự rộng lượng, với tình thươngtuệ giác.
(Xem: 18003)
Một sinh viên 18 tuổi đang cố xoay sở để trả học phí. Cậu mồ côi và không biết nhờ cậy vào ai để xin tiền. Rồi cậu nghĩ ra một cách thật hay ho.
(Xem: 15555)
Tôi nghĩ một nền tảng giáo dục vững chắc để từ đó nhận ra được bản tâm tự nhiênvô cùng quan trọng đối với bất cứ ai. Đó là cội gốc sâu bền...
(Xem: 15360)
Chúng ta đã bao nhiêu lần sanh ra và chết đi, đã bao nhiêu lần lặn ngụp trong biển sinh tử luân hồi, đã theo nghiệp sinh nơi này nơi khác.
(Xem: 17006)
Viết tại thư phòng chùa Viên Giác Hannover Đức quốc sau những ngày đã trải qua nhiều sự kiện đáng ghi nhớ... - HT Thích Như Điển
(Xem: 29343)
Mây phương đông vẫn lên hường, Ngôi chùa còn đó quê hương vẫn còn... (Trụ Vũ - Quê Hương)
(Xem: 16271)
Câu chuyện để suy gẫm về những gì đang hiện hữu quanh ta... Những Đứa Trẻ của Trần Trung Thanh
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant