Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Vô Thường Bịnh Lão

09 Tháng Chín 201622:15(Xem: 6560)
Vô Thường Bịnh Lão
VÔ THƯỜNG BỊNH LÃO

Thích Như Điển

 

Khi chưa thọ giới Sa Di, vào những năm 1964, 1965 tại chùa Phước Lâm ở Hội An, tôi được Sư Chú Hạnh Thu chỉ cho cách học Quy Sơn Cảnh Sách, cũng như các luật nghi khác để chuẩn bị đi thọ Sa Di vào năm 1967 tại Đà Nẵng. Khi học đến câu:

Vô thường bịnh lão

Bất dữ nhơn kỳ

Triêu tồn tịch vong

Sát na dị thế

Thí như xuân sương hiểu lộ

Thức hốt tức vô

Ngạn thọ tỉnh đằng

Khởi năng trường cửu…

Nghĩa:

Vô thường già bịnh

Chẳng đợi chờ ai

Sớm còn tối mất

Biến đổi từng hồi

Giống như sương mùa Xuân thấy đó

Bỗng chốc chẳng còn

Cây bên miệng giếng

Sao có thể dài lâu

Chỉ chừng ấy thôi cũng để cho tâm tôi tỉnh ngộ. Thật ra cái tỉnh của tuổi 15, 16 nó không như bây giờ. Càng lớn, càng già thì những ý nghĩa của những câu văn Cảnh Sách nầy lại càng có giá trị nhiều hơn nữa. Nó giống như thuốc bổ ngấm lịm dần vào trong từng thớ thịt của thân và ý niệm của tâm. Khi nhỏ, học để mà học, đọc để mà đọc, tụng để mà tụng, chứ ý nghĩa thì còn mơ hồ lắm. Đến khi về già ngẫm lại những lời dạy của Tổ Quy Sơn Linh Hựu Thiền Sư thật là ý vị vô cùng. Ai không biết vô thường, nhưng nhiều khi chúng ta nghĩ rằng vô thường ấy nó đến với người khác chứ chưa đến với mình. Nếu có chăng đi nữa thì cũng chưa đến với ta. Làm như mình là người ngoại lệ vậy. Ngài Quy Sơn nói rất rõ“Nó không chờ đợi ai hết cả”. Điều ấy có nghĩa là: Dầu trẻ, dầu già, khi cơn vô thường đến, hít vào mà không thở ra thì đã gọi là chết rồi, đâu cần phải gọi là 20, 30, 40 hay 80 hoặc 100 tuổi. Số tuổi dầu có ít hay nhiều, nó cũng giống như buổi sáng thì còn đó, nhưng buổi tối đã hết rồi. Thân thểtâm thức nầy nó biến hiện trong từng sát na, nhưng chúng ta nào có ai hay biết. Nó cũng giống như những giọt sương ban mai của mùa Xuân lấp lánh trên đầu cây ngọn cỏ, trông rất đẹp mắt, nhưng bỗng chốc lại tan đi, chẳng khác nào cây bám rễ bên bờ miệng giếng thì làm sao có thể tồn tại lâu dài được…

 

Đó là ý nghĩa của đoạn văn trên. Tôi vẫn mãi nằm lòng, dầu cho bây giờ đã sắp đến cái tuổi thất thập cổ lai hy rồi, khi chiêm nghiệm lại vẫn thấy giá trị vô cùng. Sanh già, bệnh chết là một định luật mà không ai trong chúng ta có thể vượt qua khỏi, hay xem thường chúng. Nguyên lý nầy Đức Phật đã chỉ rõ cho chúng ta thấy, chứ thực ra trước khi Đức Phật ra đời, con người cũng đã bị luật vô thường nầy chi phối rồi, chẳng  phải chờ đến hôm nay chúng ta mới biết. Rồi ngày mai đây, hằng trăm, hàng ngàn năm nữa cũng thế thôi. Biết để rồi biết chứ khó chấp nhận nó. Bởi vì“Biết thân ta vẫn biết, nhưng tiếc thân ta vẫn tiếc”là vậy. Cho đến khi nào con người liễu ngộ được điều nầy thì lời dạy của Đức Phật sẽ trở nên một giá trị miên viễn cho cuộc đời nầy.

 

Tôi cũng đã chứng kiến không biết bao nhiêu sự ra đi của rất nhiều người, già có, trẻ có, Tăng có, tục có. Từ người cao sang phú quý cho đến kẻ bần cùng… hầu như tôi đều có mặt trong rất nhiều cơ hội như vậy để chia sẻ những sự mất mát với những người thân, những Phật Tử hay với Môn Đồ Pháp Quyến của một vài vị Trưởng Lão ở trong cũng như ngoài nước. Hôm nay bài nầy tôi viết để tưởng niệm cố Hòa Thượng Thích Như Huệ tại Úc Châu, vốn là vị Thầy Giáo Thọ của tôi từ những năm 1964 đến năm 1968 tại Hội An trong những mùa An Cư Kiết Hạ hay những giờ học Giáo Lý tại trường Trung Học Bồ Đề Hội An thuở nào.

 

Chiều ngày 23 tháng 6 năm 2016 Thượng Tọa Nguyên Tạng từ Úc có gọi cho tôi nhiều lần để báo tin rằng Hòa Thượng Thích Như Huệ, Phương Trượng Tổ Đình Pháp Hoa ở Nam Úc đã viên tịch, nhưng tôi và Thầy Hạnh Giới lúc ấy đang chỉnh sửa bài vở tại Vô Học Cốc, nên đã không nghe được tin nầy, mãi cho đến giữa khuya hôm đó bên Úc, Thầy gọi cho tôi một lần nữa, thì mọi việc đã được an bài. Nghĩa là Hòa Thượng đã thực sự ra đi, thế thọ 83 tuổi và Ngài tu học trên dưới 70 năm kể cả thời gianở trong nước và ở hải ngoại. Đây là một sự mất mát không nhỏ đối với đồng bào Phật Tử Việt Nam tại Úc, cũng như cho Môn Đồ Pháp Quyến của Ngài. Phần tôi phải lo chuẩn bị sắp xếp để đi dựTang lễ của Ngài vào ngày 30 tháng 6 năm 2016 tại Adelaide, Nam Úc. Mặc dầu tôi mới vừa ra khỏi bệnh viện, sau cuộc giải phẫuTiền Liệt Tuyến lần thứ hai mới mấy ngày (16.6.2016),nhưng tôi quyết định đi Úc.Có nhiều Đệ Tử lo ngại cho sức khỏe của tôi, nên có ý ngăn cản, nhưng tôi bảo rằng“Ơn nghĩa nghìn trùng của Hòa Thượng, làm sao tôi có thể đáp đền được, nếu ngày di quan không có mặt tôi, sẽ là sự thiếu sót vô cùng”cho nên mọi người đã hiểu và muốn cử quý Thầy Thị giả đi theo cùng, nhưng tôi đã khoát tay và bảo rằng“Thầy có thể tự lo liệu lấy”. Từ Đức muốn qua Úc, phải mấtít nhất là 24 đến 26 giờ ngồi trên máy bay, đó là chưa kể đến những giờ chờ đợi. Do vậy mà ai cũng ngán đi Úc. Càng già thì lại càng ngán ngẫm hơn với khoảng thời gian như vậy. Cuối cùng thì tôi, Hòa Thượng Thích Tánh Thiệt, Thầy Quảng Đạo và Cô Diệu Trạm đã đến phi trường Adelaide vào tối ngày 28 tháng 6 năm 2016 vừa qua để tham dựTang lễ của Ngài. Năm nay cũng là năm tôi bỏ việc tham dự sinh nhật của chính mình được tổ chức tại chùa Linh Thứu ở Berlin, nhân việc họp Chi Bộ thường niên của chư Tăng Ni Việt Nam ở Đức và tôi cũng bỏ luôn việc chủ trì khóa tu gieo duyên tại chùa Viên Giác Hannover từ ngày 1 đến ngày 10 tháng 7 năm nay, để chỉ một mục đích duy nhất là tham giaTang lễ của Hòa Thượng Ân sư, Trưởng Lão Thích Như Huệ.

 

Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan đứng ra lo Tang lễ, còn Môn Đồ Pháp Quyến chỉ giữ nhiệm vụ lo việc“Tứ sự cúng dường”cho chư Tôn Đức Tăng Ni đến tham dự lễ; mọi việc đáp từ, cũng như cách tổ chức đều có Giáo Hội đảm đang. Trên từ Hòa Thượng Tăng Giáo Trưởng Thích Huyền Tôn đếnchư Tôn Đức Tăng Ni trong Giáo Hội tại Úc Đại Lợi cũng như Tân Tây Lan đều hiện diện. Dưới là những vị cưthuần thành hộ pháp tại các Tiểu Bang cũng đều có mặt. Đặc biệtGiáo Hội của Bốn Châu gồm: Âu, Úc, Mỹ và Canada đều hiện diện để nói lên tình liên kết của Giáo Hội Liên Châu. Đặc biệt hơn nữa là có Ông Lê Văn Hiếu đại diện cho Toàn Quyền Nam Úc(chỉ dưới quyền của Nữ Hoàng Elizabeth của Anh) cũng đã đến phúng viếng trước Kim quan của Hòa Thượng. Đây là niềm hãnh diện của chúng ta, vì lẽ trong cộng đồng của người Việt Nam tỵ nạn tại Úc Châu, cố Hòa Thượng Thích Như Huệ đã giữ một vai trò tích cực trong cương vị lãnh đạo tinh thần của Phật Giáo trong suốt hơn 3 thập niên qua tại vùng đất mới nầy.

 

Cuộc đời của Hòa Thượngquê nhà cũng như tại Hải Ngoại đã trải qua nhiều giai đoạn khác nhau như: Thăng, trầm, vinh, nhục. Cao thượng có mà thấpkém cũng chẳng phải là không; nhất là những giai đoạn vào cuối đời, Hòa Thượng bị tai bay họa gửi, lo lắng khôn lường cho những vụ kiện cáo không đâu, tưởng chừng như không còn lối thoát. Thế nhưng những dư báo của Hòa Thượng trong đời trước vẫn còn, nên mọi chướng duyên rồi cũng nhường bước cho những sự kiện mới đã được hanh thông. Hòa Thượng đã thở phào nhẹ nhõm và có lẽ đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho bịnh trạng của Hòa Thượng càng ngày càng trầm trọng hơn và cuối cùng phải nhận câu“Nghĩa tử là nghĩa tận”. Riêng tôi thì suy nghĩ khác đi một chút trong quan điểm nầy. Tôi thấy đa phần người Việt của chúng ta, ai đó khi còn sốngthường bị thấy toàn là chuyện xấu, nhưng đến khi chết thì lại được nghe toàn là những lời ca ngợi ở mọi bình diện và cũng chẳng ai dám nói sự thật bao giờ. Có lẽ người ta sợ sự thật chăng? Cho nên theo tôi nghĩ,lúc còn sống chúng tanên chỉ thấy những chuyện tốt của nhau, lo vun bồi những điều lành để làm tăng trưởng thiện tâm nơi mỗi người, thì tuổi thọ của chúng ta có thể sẽ được dài lâu hơn. Còn việc xấu, bề nào nó cũng đã xấu rồi, tại sao chúng ta lại còn đào sâu hơn nữa để làm gì?  Đó có phải là chúng ta chỉ lo củng cố cho tự ngã của mình và muốn dìm cái ngã của người khác xuống để cái ngã của chính ta tự do, tự tại chăng? Cũng có thể là như vậy, mà cũng chưa hẳn là như vậy. Bởi lẽ, không một ai trong chúng ta tránh khỏi sự thật được. Dầu cho sự thật ấy có là thế nào đi chăng nữa thì sự thật cũng sẽ là một sự thật, thì đâu cần phải chữa cháy làm gì?

 

Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 thường dạy rằng:“Nếu trong tâm bạn chỉ chứa toàn là lòng từ bi, thì hận thù không còn nơi để tồn tại”. Đúng thật là như vậy. Nếu chúng ta chỉ nhìn những cái đẹp cái thiện của người khác, khi đang sống hay lúc đã chết, thì tâm ta hỷ lạc vô biên. Nếu không muốn thấy, hoặc vô tình hay cố ý về những lỗi lầm của kẻ khác, tâm ấy chính là tâm đại địa của những bậc quân tử. Đời nầy rất hiếm có được người như vậy, nhưng tuyệt nhiên không phải là không.Đôi khi Ngài cũng dạy rằng:“Love and Compassion are nessessities, not luxussieties. Without them, humanity can not survive”. Nghĩa là: Tình yêu và lòng từ bi là những điều cần thiết, không phải là những điều xa xỉ. Nếu không có chúng, thì nhân cách của con người không thể phát triển được”. Đúng là như vậy, giữa con người với con người hơn thua nhau là cái nhân cách sống, chứ không phải sự giàu có, danh vọng, địa vị hay sĩ diện. Chúng lại không là những giá trị vật chất để biểu dương, mà là những Chân Thiện Mỹ của con người vốn có sẵn nơi tự tâm của mỗi chúng ta.

 

Từ đó tôi có ý nghĩ rằng từ nay về sau, nếu chúng ta nhìn một người nào đó, hãy khoan phê phán, mà hãy trân quý họ như những gì trong phẩm“Thường Bất Khinh Bồ Tát”trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa đã dạy, thì tâm ta sẽ tự tại vô ngại, không có gì bị dính mắc và không có gì để não phiền, mà thay vào đó, chúng ta thấy ai cũng là Thầy của mình và mình chính là những người học trò cần phải học hỏi ở nơi những vị Thầy ấy, thì mọi việc sẽ trở nên giản đơn hơn bao giờ hết. Nếu chúng ta chỉ chuyên nhìn điểm xấu của người khác thì tâm của chúng ta cũng sẽ chứa đựng những não  phiền, thì lòng từ bi ít có cơ hội để  hiện hữu. Hãy mở rộng bản tâm của mỗi con người để đón nhận những niềm tin yêu cao thượng nơi những bậc trưởng thượng thì mọi người trong chúng ta sẽ được lợi lạc nhiều hơn. Quan niệm của mỗi người có thể mỗi khác, nhưng quan niệm về cách sống của tôi từ lâu tôi đã chọn cách nầy, cảm thấy lợi lạc vô cùng.

 

Nay nhân sự ra đi của Cố Hòa Thượng Thích Như Huệ cũng là vịÂn sư của tôi, tôi muốn nhắn gửi đến mọi người, có thể là không phải ai cũng đều đồng quan điểm với tôi, nhưng nên ít chỉ trích nhau trong lúc còn sanh tiền, mà hãy trân quý nhau trong từng những sát na hiện hữu, vì ngày mai sẽ không là ngày hôm nay và quá khứ chẳng phải là hiện tại, tất cả đều phải thay đổi, cho nên chúng ta nên nhìn về người cũng như sự vật có cái nhìn thông thoáng hơn, thì tâm ta sẽ an lạc vô cùng. Sự sống nếu có bắt đầu thì phải có sự chấm dứtchúng ta muốn sự chấm dứt ấy như thế nào, chúng lệ thuộc vào những hành động trong hiện tại của mỗi người. Nếu trong hiện tại chúng ta luôn dùng lòng từ bi để cư xử với nhau, thì chắc rằng thế giới nầy sẽ trong sáng hơn. Điều ấy hẳn đúng như Thánh Gandhi đã nói rằng:“Nếu mỗi ngày chúng ta dùng 10 đến 15 phút để thiền định thì thế giới sẽ không có chiến tranh xảy ra”. Sở dĩ có chiến tranh vì còn hận thù, mà hận thù thì không thể tự diệt được hận thù; chỉ có lòng từ bi mới diệt được hận thù mà thôi.

 

Viết xong vào một sáng mùa Thu ngày 9 tháng 9 năm 2016tại Tu Viện Viên Đức Ravensburg, miền Nam nước Đức.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 2064)
Sống ở đời ai cũng mong cầu được hạnh phúc. Hạnh phúc là gì?
(Xem: 2212)
Ở đời bất cứ sự kiện nào xảy ra cũng có nguyên do của nó. Như bài kinh “Bát Đại Nhân Giác” xuất hiện trên thế gian này cũng không ngoại lệ.
(Xem: 1711)
Hai chữ vô thường rất quen thuộc với mọi người chúng ta, trong đời sống hàng ngày ai ai cũng nghe và nói.
(Xem: 2020)
Tư tưởng nhân quả Phật giáotư tưởng nổi bật trong nhân sinh quan Phật giáo.
(Xem: 1738)
Chúng ta đang chứng kiến những bất ổn xã hội hay thiên tai trên toàn thế giới, Việt Nam không phải là ngoại lệ khi gần đây
(Xem: 1721)
Sống phải có niềm tin, nhưng đừng tin quá vào một người, dù người đó là ai, có địa vị như thế nào trong xã hội.
(Xem: 1893)
Đức Phật đã dạy cho hàng đệ tử về mối tương quan và lợi ích của việc thực hành bốn nhiếp pháp trong Kinh Tăng Chi Bộ,
(Xem: 1905)
Đức Phật Thích Ca Như Lai của chúng ta, lúc mới phát tâm, đã vì ta mà tu Bồ tát đạo, trải qua vô lượng kiếp chịu đủ các thứ khổ cực.
(Xem: 1557)
“Không làm các việc ác Siêng làm các việc lành Thanh tịnh hoá tâm ý…”
(Xem: 1730)
Việc khấn nguyện, cầu nguyện là một vấn đề tâm linh rất phổ biến của tín đồ mọi tôn giáo và không cứ gì mùa xuân mà việc khấn nguyện...
(Xem: 2070)
Hồi sáng, lúc đi thiền hành ở Xóm Thượng, tôi đi xuôi xuống chùa Sơn Hạ. Mỗi bước chân giúp tôi tiếp xúc với sự sống rất sâu sắc
(Xem: 1823)
Chế độ ăn kiêng của bạn có thể giúp dự đoán bạn sống được bao lâu.
(Xem: 2385)
Đức Phật dạy “Thân người khó được, Phật pháp khó nghe”. Biết điều này, khi được là con Phật, ta sẽ thấy mình thật hạnh phúc vì ...
(Xem: 1714)
Không ít Phật tử đến chùa quy y, học Phật pháp, công quả, tham gia các hoạt động Phật sự, thường theo cảm tình đối với người Thầy ở nơi mình đến hơn là...
(Xem: 1714)
Giữ năm giới là khó, giữ gìn một cách hoàn hảo càng khó hơn. Muốn giữ giới hoàn hảo, trước phải học và thông hiểu về mỗi giới
(Xem: 1673)
Đóng cửa các nẻo đường xấu ác để chúng sanh không bị sa rớt xuống các nẻo địa ngục, quỷ đói, súc sanh.
(Xem: 2122)
“Chớ bảo xuân tàn, hoa rụng hết. Đêm qua sân trước một cành mai”
(Xem: 1945)
Người ta nói uống trà là thú vui tao nhã, thanh cao. Thú vui cuộc đời nói chung có hai loại là thanh cao và không thanh cao.
(Xem: 2086)
Mỗi khi mùa xuân mới về là trời đất lại thanh tân, vạn vật muôn loài thay áo mới nhưng lòng người thì vẫn cũ, vẫn chẳng đổi thay,
(Xem: 1626)
Nếu mùa xuân là cái gì tươi đẹp nhất thì đó phải là vẻ đẹp từ sự biết ơn trong tâm hồn của mỗi người.
(Xem: 2244)
Mùa xuân hải ngoại trời lạnh lắm nhưng lòng người ấm áp vì nhớ về những mùa xuân dân tộc.
(Xem: 1594)
Không biết từ khi nào, có lẽ từ lâu lắm rồi, trà là một trong những thứ không thể thiếu trong các gia đình của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng.
(Xem: 1873)
Mùa xuân là mùa khởi đầu năm mới. Năm mới thường mở đầu bằng một mùa xuân mơ ước đầy khát vọng, hoài bão.
(Xem: 1758)
Bóng chiều ngã dài, trên sườn đồi, vài sợi mây xanh vươn vấn, tiếc nuối dư hương nhạt nhòa, chạnh lòng băng giá khách tha phương tìm về cố quốc
(Xem: 1823)
Đạo đức học Phật giáo là một hệ giá trị bền vững cùng năm tháng, xuất phát từ tuệ nhãn của bậc Thiện Thệ hơn hai nghìn sáu trăm năm trước.
(Xem: 1667)
Trong Trung luận hay Trung đạo luận hay Trung quán luận (Mulamadhyamakakarika, Căn bản Trung luận tụng), bản văn căn bản của ngài Long Thọ,
(Xem: 2402)
Ngày Tết cũng là dịp để những người con Phật suy nghiệm về lẽ vô thường biến dịch của vạn pháp và của chính thân phận mình.
(Xem: 2118)
Sự tha thứ chữa lành vết thương cho người mà bạn cho là đã xúc phạm và chính bạn, người bị xúc phạm.
(Xem: 2067)
Cuối thế kỉ XIX cờ Phật giáo được thiết kế nhằm tượng trưngđại diện một cách thống nhất cho Phật giáo và được Phật tử trên khắp thế giới sử dụng.
(Xem: 1868)
Ngôn ngữ là hình thái biểu đạt ý tưởng.Tùy mỗi chủng loại có một âm ngữ riêng; âm ngữ của con người thể hiện qua ngôn ngữ ...
(Xem: 2218)
Chúng ta thường đấu tranh với việc chọn món quà nào là hoàn hảo. Chúng ta tập trung sự chú ý của mình chủ yếu vào các đối tượng và sự kiện.
(Xem: 1792)
Thực hành Tịnh độđơn giản. Cách tu tập này không yêu cầu hành giả phải được học về tư tưởng Phật giáo hoặc đặc biệt về giới, về thiền hoặc kỷ luật tâm linh.
(Xem: 1916)
Một trong những kết luậnPhật giáo và các nhà khoa học đều đồng ý là không có đấng tạo hóa.
(Xem: 2148)
Thiền pháp tỉnh thức (mindfulness meditation) đang trở thành một trong các khuynh hướng ưu thắng của nhiều lĩnh vực hoạt động tại Hoa Kỳ và nhiều nước khác.
(Xem: 1680)
Đức Phật giảng dạy tám mươi bốn ngàn pháp môn, mỗi pháp môn phù hợp cho trình độcăn cơ của chúng sinh tiếp nhận,
(Xem: 1936)
Niềm tin là nguồn nguyên liệu cần thiết cho sự sống. Không có niềm tin, con người ta sẽ chết, hoặc sống gần như chết
(Xem: 1931)
Tu, rốt cuộc là để nhìn vạn pháp đúng như chính nó.
(Xem: 2148)
Niệm Phật là một pháp môn dễ học, dễ tu, được đức Phật dạy rất sớm, rất nhiều trong các kinh, từ kinh Nikaya hệ thống ngôn ngữ Pali của Phật giáo Nguyên thủy.
(Xem: 1925)
Bài kinh “Bốn Hạng Người Hiện Hữu Ở Đời” được ghi lại trong Tăng Chi Bộ Kinh I, chương 4, phẩm Bhandagàma, phần Thuận Dòng.
(Xem: 1766)
Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật).
(Xem: 1749)
Đạo Phật có phải là một tôn giáo không là một câu hỏi không mới nhưng không cũ đối với những ai đến với đạo Phật chỉ bằng con đường tín ngưỡng đơn thuần.
(Xem: 1756)
Đi chùa lễ Phật, cầu gia hộ. Trước buổi học Phật pháp, hay lễ hội Phật sự, nghi thức đầu tiên đều là “niệm Phật cầu gia hộ”.
(Xem: 1865)
Đúng là nếu giữ được năm giới thì cơ bản sẽ không rơi vào ba đường ác và được tái sinh ít nhất là vào cõi người,
(Xem: 2157)
Trong kinh Thừa tự pháp, đức Phật dạy hàng đệ tử nên thừa tự giáo pháp của Ngài chứ không nên thừa tự tài vật của Ngài.
(Xem: 1709)
Trong các kinh Bát nhã ba la mật giảng nói nhiều về tánh Không với những phẩm tính như vô tự tánh, vô sở hữu, bất khả đắc, vô sanh, như huyễn…
(Xem: 1683)
Phật phápgiáo lý của Đức Phật. Gọi là giáo lý tức là nhằm chỉ đến giáo dục với tất cả các phạm trù
(Xem: 2248)
Con người vĩ đại đó, tấm lòng trí tuệ đó, phương pháp giáo dục siêu việt đó của đức Phật đã khiến muôn nghìn trái tim của nhân loại hướng về Ngài
(Xem: 1956)
Định hướng tư tưởng là một vấn đề vô cùng quan trọng trong đời sống sinh hoạt của con người.
(Xem: 1774)
Ngược dòng lịch sử hơn 2.500 năm về trước ở xứ Ấn Độ, trước khi Đức Phật ra đời, nơi đây đã đơm hoa kết trái nhiều hệ tư tưởng khác nhau.
(Xem: 2349)
Con người sinh ra đời, sống và lớn lên trong gia đình được ấp ủ bởi tình thương của cha mẹ, tình anh chị em, tình bà con dòng họ.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant