Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhân Quả Qua Một Câu Chuyện

10 Tháng Mười 201607:43(Xem: 7552)
Nhân Quả Qua Một Câu Chuyện

NHÂN QUẢ QUA MỘT CÂU CHUYỆN 

Chân Hiền Tâm

Nhân quả qua một câu chuyện

Nhân quả là thực lý chi phối thế giới này.

Nghĩa là …

Mọi thứ đều có nhân duyên, không có thứ gì tự nhiênxuất hiện, dù là ở mặt vật chất hay tinh thần.

. Nếu mình có những ý nghĩ thiện và tạo được các hành vi thiện thì mình sẽ có được những cảnh giới tốt đẹp trong đời sống của mình.

. Nếu mình có những ý tưởng xấu và chẳng may mình thực hiện được những ý tưởng đó thì quả báo khổ nạn không sao kể xiết.

Xin nghe câu chuyệnHòa thượng Thiện Siêu đã kể:

Một hôm nọ, vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) và hoàng hậu Mạt-lợi (Mallika) đến tịnh xá Kỳ Viên nghe Phật thuyết pháp. Vua cưỡi ngựa, còn hoàng hậu ngồi trên kiệu do 4 người Phiến-đề-la khiêng vác. Đến nơi, trong lúc vua và hoàng hậu vào nghe thuyết pháp thì 4 tên khiêng kiệu nằm chờ ở cổng tịnh xá. Trong lúc bọn chúng ngủ mê, một kẻ gian lén trộm lấy ngọc mani trên kiệu báu của hoàng hậu. Khi ấy cận vệ của hoàng hậu ra ngoài xem chừng, thấy mất ngọc Mani liền nghi 4 tên này ăn trộm, nên nổi giận lấy roi đánh tụi nó. Bị đánh đau quá, một tên bỏ chạy vào tịnh xá kêu oan làm mọi người chú ý.

Phật báo ngài A Nan:

- Người hãy ra bảo cận vệ đừng đánh oan người vô tội. Vì 4 người ấy chính là thầy đời trước của hoàng hậu.

Hoàng hậu nghe Phật nói như vậy, liền đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn ! Như lời Thế Tôn nói thì 4 người khiêng kiệu cho con chính là thầy đời trước của con. Con thật mê muội không rõ, cúi xin Thế Tôn từ bi nói rõ nhân duyên cho chúng con được biết.

Phật nói như sau:

- Trong một kiếp quá khứ, gặp lúc hạn hán, thiên tai, dân chúng đói khát, khi ấy có 5 vị Tỳ-kheo lười biếng không học giáo lý, kinh luận, không tu hành nghiêm túc nên không ai cúng dường, bị đói khát khốn khổ. 5 người bày mưu với nhau: Mỗi người đi xin, sắm được tọa cụ, tìm chỗ đồng trống quét dọn sạch sẽ, rồi làm bộ ngồi thiền nhập định để người đời trông thấy tưởng là thánh nhân, sẽ đem đồ ăn đến cúng dường. Quả nhiên đúng như vậy! Dân chúng từ từ đồn nhau tới cúng dường bậc thánh nhân.

Khi ấy có một nữ cư sĩ thuần thành tên là Đề Vi nghe tin đồn, liền sai người đi dò hư thực. Người đi dò tin về thưa rằng: “Có 5 vị thánh nhân ngồi tu trong núi, người ta đua nhau xúm lại hầu hạ cúng dường”.

Đề Vi nghe xong, trong lòng rất hoan hỷ, sai người sắm sửa hương hoa, kỹ nhạc, trăm món thức ăn đi đến chỗ 5 thầy Tỳ-kheo để cúng dường.

Đến nơi làm lễ, thiết đãi cúng dường 5 thầy Tỳ-kheo xong. Đề Vi và quyến thuộc cung kính chắp tay thưa với 5 thầy Tỳ-kheo rằng:

- Quý ngài là bậc chân tu, đức dày, phước lớn. Đệ tử muốn thỉnh quý ngài quang lâm đến bần xá, để trọn đời cúng dường hầu hạ. Nhà đệ tử có vườn cây thanh tịnh, suối ao trong mát, cúi xin quý ngài từ bi thương xót hứa khả.

Thấy bà Đề Vi và quyến thuộc thành khẩn cầu thỉnh đôi ba lần, 5 vị Tỳ-kheo nhận lời.

Đế Vi hoan hỷ từ tạ trở về, sai người chuẩn bị xe báu, đến rước 5 thầy Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Nhà bà có vườn cây vuông vức mười mẫu, trong đó có suối trong, ao mát, nhiều hoa thơm quả lạ. Bà cho xây dựng phòng ốc bằng bảy báy, sắm đủ giường nệm và tọa cụ tốt đẹp, rồi mời 5 thầy Tỳ-kheo về ở và trọn đời cung cấp phụng sự đầy đủ.

Khi ấy, 5 thầy Tỳ-kheo được chủ nhân cúng dường hậu hỷ, khởi nghĩ rằng: “Có gì sung sướng cho bằng. Người ta sinh ra ở đời phải tìm mọi cách kiếm sống qua ngày, dù được như ý nhưng cũng không thể bằng bọn ta, chẳng nhọc thân mà lại được hưởng phước lợi, đây há chẳng phải nhờ sức trí tuệ hay sao?”

5 thầy Tỳ-kheo tuy được bà Đề Vi hết lòng trọng đãi, cúng dường đầy đủ các thứ cần dùng, nhưng lòng tham chưa thỏa, muốn kiếm thêm tiền của để sau này thọ hưởng riêng thú vui ngũ dục. Họ bàn với nhau rồi sai một người đi dạo trong làng xóm, rao nói mọi người :”4 thầy tỳ kheo kia, ở yên một chỗ vắng lặng, giữ gìn giới cấm, dứt hẵn rượu thịt, tu thiền chỉ quán, chứng nghiệp vô lậu. Chẳng bao lâu sẽ chứng quả A-la-hán, thật là bậc vô thượng phước điền trong thiên hạ”.

Nhiều người nghe thấy, đua nhau mang đến đủ thứ tiền tài ẩm thực, cung kính cúng dường… như thế nhiều năm. Còn bà Đề Vi vẫn một lòng tin kính, tiếp tục cúng dường, không chán. Sau khi chết, bà được tái sinh lên cõi trời Hóa Lạc.

Còn năm vị Tỳ-kheo kia, chuyên làm việc lừa đảo, lợi dụng lòng tốt của kẻ khác, nên sau khi mạng chung, sinh vào địa ngục tám nghìn ức kiếp chịu quả báo rất khổ. Sau khi hết tội địa ngục, phải chịu thân ngạ quỷ trải qua tám nghìn kiếp. Sau khi hết nghiệp ngạ quỷ, phải làm thân súc sinh để đền trả sự cúng dường đời trước cho chủ nhân.

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

- Bà Đề Vi thuở đó chính là hoàng hậu hiện nay, còn 5 thầy Tỳ-kheo, bây giờ là 5 người khiêng kiệu cho hoàng hậu.

Vua bạch Phật rằng:

- Theo như lời đức Thế Tôn nói thì có 5 người nhưng sao chỉ thấy có 4 người khiêng kiệu, còn một người nữa ở chỗ nào?

Phật bảo vua:

- Người thứ năm là người thưởng ở trong cung quét dọn cầu xí và đổ phân.

Hoàng hậu nghe xong rùng mình rởn ốc, ôm lòng kính sợ, bạch với Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Nay con biết được họ là thầy con đời trước, lòng con rất lo sợ phạm tội. Bởi vì đối với bậc thầy của mình thì phải cung kính lễ bái mới phải. Mà nay trở lại sai khiêng kiệu không khác gì trâu ngựa. Vì nhân duyên đó nên con rất lo sợ, cúi xin Phật thương xót dạy con sám hối.

Phật bảo hoàng hậu:

- Hoàng hậu không có tội lỗi gì nên chớ kinh sợ. Chúng sinh nhiều căn tánh, hạnh nghiệp không giống nhau, làm lành thì hưởng phước, làm ác thì thọ tai ương. Hoàng hậu đời trước tâm thanh tịnh, ưa cúng dường các bậc tu hành, nhờ phước đức đó nên sinh ra mỗi kiếp thường gặp minh sư. Cho đến ngày nay, hưởng phước gặp Phật ra đời, được nghe Chánh pháp, tín thọ phụng hành, nên không có tội lỗi chi.

Sau khi nghe Phật khai thị, hoàn hậu muốn tha cho bốn tên Phiến-đề-la, không dám sai khiến nữa và cầu xin Phật thuyết pháp cho chúng hiểu đạo, bỏ ác tu thiện để mau thoát khổ.

Phật bảo hoàng hậu:

- Nay nếu muốn Ta khai hóa thì phải gọi người đổ phân trong cung lại đây luôn.

Hoàng hậu liền sai sứ đi gọi người thứ năm đến. Sứ giả vâng lệnh đi gọi, trong giây phút cả 5 người Phiến-đề-la nhóm lại đứng trước Phật.

Đức Thế Tôn từ bi hỏi thăm:

- Các ngươi thân thể có được mạnh khỏe, an ổn, vui sướng chăng?

Năm người nổi giận nói rằng:

- Chúng tôi ngày đêm cực khổ, bị đánh đập sai sử không được nghỉ ngơi, có vui sướng gì đâu, Phật há không biết hay sao mà lại hỏi các ngươi có an ổn, vui sướng chăng?

Phật bảo 5 người rằng:

- Sự khổ của các ngươi ngày nay đều do đời trước gian dối nịnh hót, đem tâm bất thiện, lường gạt người khác, để thọ hưởng cúng dường. Nghiệp tội đó đền trả đến nay còn chưa hết. Nếu muốn thoát khỏi quả báo ác thì phải hết lòng sám hối, cải dữ tu hành.

Bọn Phiến Đề La nghe Phật nói, đùng đùng nổi giận quay lưng đi, không muốn nghe nữa. Phật bèn dùng thần lực hiện ra một hóa Phật đứng trước mặt bọn chúng, dùng phương tiện khuyên bảo sám hối. Nhưng bọn chúng tức mình quay mặt về hướng Đông. Cũng thấy hóa Phậttrước mặt. Quay về hướng Tây, cũng có hóa Phật. Quay hướng nào cũng đều có Phật đứng trước mặt. Bọn chúng bí quá la lên:

- Chúng tôi là người tệ ác. Phật không thương xót mà còn bao vây, áp đảo thêm nữa!

Khi ấy, Thế Tôn liền thâu nhiếp hóa Phật lại thành một Phật và bảo đại chúng:

- Các ngươi phải biết chúng sinh tội nghiệp có hai món chướng. Một là nghiệp chướng, hai là phiến não chướng. Người tội nhẹ thì có phiền não chướng, người tội nặng thì có nghiệp chướng. Bọn Phiến Đề La đây có đủ hai chướng. Ví tội chướng quá nặng nên không thể nghe được lời giáo hóa của Phật.

Hoàng hậu thấy Bọn Phiến Đề La không chịu nghe lời Phật giáo hóa, buồn cảm thương tâm nói với năm người rằng:

- Ta nay đã rõ nhân duyên đời trước nên tha cho các ngươi, muốn đi đâu tùy ý.

Bọn chúng quỳ gối khóc lóc thưa với Hoàng hậu:

- Muôn tâu lệnh bà, chúng tội phụng sự hầu hạ không biết có lỗi gì mà lệnh bà lại đuổi chúng tôi? Nếu có gì không vừa ý, cúi xin lệnh bà rộng lòng tha thứ, cho chúng tôi hầu hạ như trước.

Hoàng hậu khiêm nhường từ chối đôi ba lần, nhưng bọn Phiến-đề-la nhất định ở lại, không chịu đi đâu hết. Túng thế Hoàng hậu cầu cứu đến Phật:

- Thưa Thế Tôn! Con thiệt tình dung thứ cho bọn Phiến-đề-la mà chúng nhất định không chịu đi, nhất định ở lại trả nợ, vậy phải làm sao đây?

Phật bảo hoàng hậu:

- Bọn chúng trả nợ đời trước chưa hết, nhân duyên bó buộc nên không đi được. Hoàng hậu chẳng cần làm sao, cứ để chúng phụng sự như trước, đến khi nào trả hết nợ tự động chúng sẽ ra đi.

Mới thấy…

. Nếu tâm địa mình lương thiện, mình có tâm tôn trọng Phật – Pháp – Tăng thì dù mình có cúng dường nhầm người, quả báo mình nhận được vẫn tốt. Ở đây, cần phân định cho rõ: Phu nhân bị 5 người kia dùng bề ngoài lường gạt, thành Phu nhân cúng dườngcúng dường cho bậc chân tăng. Không phải thấy 5 người kia bê tha, đội lốt tăng chúng mà vì tư tình, vì được thỏa mãn cái tôi mà vẫn cúng dường. Phu nhân chỉ vì lòng tôn trọng Phật – Pháp - Tăng mà cung dưỡng. Do tâm đó mà quả báo Phu nhân nhận được vẫn tốt đẹp. Với tâm lượng sau thì quả báo không như vậy. Cho nên, trong kinh Niết-bàn Phật nói “Nến cúng dường cho người đáng cúng dường. Không cúng dường cho người không đáng cúng dường”.

. Nhân gây rồi nếu không chuyển tâm tu hành thì sẽ trả quả cho hết mới thôi. Có tha cũng không chịu buông.

. Dùng áo Như Lai để gạt gẫm chúng sinh mưu lợi, quả báo đọa địa ngục vô lượng kiếp, làm thân ngã quỉ vô lượng kiếp, rồi sau mới làm trâu làm ngựa trả cái quả ấy.

. Tâm sân hận khiến chúng sinh không thấy được lẻ phải, không nhận được điều tốt đẹp trước mắt. Dù Phật có hiện ra trước mắt cũng không thể thấy. Tâm sân hận đáng sợ như vậy. Cần cẩn thận với tâm sân hận của chính mình.  

. Nghiệp của chúng sinh, nếu không tự chuyển tâm cứu mình thì dù có năng lực tu hành như Phật cũng chẳng thể cứu. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1416)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1310)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
(Xem: 1390)
Hạnh phúc chính là sự bình an của thân thể và sự yên tĩnh của tâm hồn.
(Xem: 1372)
Cái vòng tròn vô hình lại quay trọn môt vòng, mùa thu lại về với đất trời Bắc Mỹ.
(Xem: 1275)
Trong Trung luận của Bồ tát Long Thọ luận giảng về tánh Không, phần nhiều là những câu phủ định.
(Xem: 1333)
Trong năm bộ Nikaya của hệ Pali, Đức Phật thường nói đến sự “không có lõi cứng” của các hiện tượng, từ thân tâm, cho đến thế giớichúng sanh.
(Xem: 1342)
Mỗi người trong cuộc sống này luôn có một thử thách để chinh phụcvượt qua, đó là gì?
(Xem: 2028)
Một trong những hình thức ta nuôi dưỡng phiền giận về chính mình là mặc cảm tội lỗi.
(Xem: 1380)
Thế gian không có cái gì khổ cả, khổ chỉ là những ảo giác của con người.
(Xem: 1395)
Thực tập nhằm tăng cường khả năng tập trung hoặc chú ý đóng một vai trò quan trọng trong hầu hết các truyền thống tôn giáo lớn.
(Xem: 1274)
Trong phẩm Thế Chủ Diệu Nghiêm thứ nhất của Kinh Hoa Nghiêm, các thiên vương, các thần vương cho đến các Đại Bồ tát nói kệ tán thán Phật
(Xem: 1524)
Về pháp thiền quán vô thường tôi chia sẻ hôm nay, tôi sẽ không bàn đến đại vô thường như là cái chết, sự hủy diệt, sụp đổ hay sự chia ly.
(Xem: 1362)
Sau khi quy y Tam bảo, vì muốn tìm cầu tri thức, tôi đã nỗ lực nghiên cứu kinh điển. Kinh Phật mênh mông như biển cả,
(Xem: 1231)
Sống lâu, khỏe mạnh là một phước báu lớn. Nhưng không phải ai cũng có được phước báo này.
(Xem: 1203)
Ăn chay không thực hành trong tâm lý cứng nhắc, khắc nghiệt mà ăn chay cần duy trì trong một tâm thái an lạc, nhẹ nhàng và hạnh phúc!
(Xem: 1265)
Thiểu dục: là ít muốn. Tri túc: là biết đủ. “Thiểu dục tri túc”, tức là ít ham muốn và biết đủ.
(Xem: 1247)
Biết chế ngự tâm thì sẽ giảm đi hoặc chấm dứt hẳn những tham vọng, cuồng nộ, sân hận, bẳn gắt, ganh tỵ, đố kỵ, si mê...
(Xem: 1393)
Con người khi mất đi, vẫn còn âm hồn như trong đạo Phật vẫn luôn nhắc đến thuyết luân hồi,
(Xem: 1115)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rừng.
(Xem: 1109)
Người thế gian không biết nên oán trách cha mẹ không có phước nên sanh mình ra khổ.
(Xem: 1169)
"Một thời Đức Phật du hóa tại thành Vương-xá, trong rừng Trúc, vườn Ca-lan-đa. Bấy giờ, Tôn giả Tam-di-đề cũng đi du hóa ở thành Vương-xá, tại Ôn tuyền lâm.
(Xem: 1301)
"Chánh niệm" - Đó là một từ được bàn tán nhiều khi một người lần đầu tiên tìm hiểu về thiền địnhPhật giáo. Chánh niệm là gì?
(Xem: 1328)
Trí huệ là cái mỗi chúng sanh đều vốn có, chỉ vì bị khuất lấp do những che chướng tạm thời, phiền não chướngsở tri chướng, mà không thấy không biết
(Xem: 1099)
Kinh Vu lan, một bản kinh ngắn nhưng hàm súc, tràn đầy ý nghĩa nhân văn, chan chứa đạo lý, thấm đẫm tình người và đặc biệtgiá trị giáo dục nhân cách với đặc trưng hiếu đạo.
(Xem: 1205)
Đôi khi chúng ta sống cùng nhau, đi ngang đời nhau, đối diệnvới nhau nhưng lại chẳng thấy nhau.
(Xem: 1145)
Các đặc điểm hợp lý trong giáo lý Phật giáo sơ kỳ đã có sức hấp dẫn lớn đối với các học giả châu Âu khi họ nghiên cứu vềPhật giáo.
(Xem: 1291)
Là người Việt Nam, chúng ta ai lại không biết bài hát “Lòng mẹ” của Y Vân với những câu hát như “Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình rạt rào/ Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào…”.
(Xem: 1282)
Ngày Lễ Vu Lan để mỗi người con nhớ đến sự hy sinh, tình thương bao lacông ơn của Cha Mẹ,
(Xem: 1411)
Ngày lễ Vu Lan, những người con ở xa thương nhớ cha mẹ, lòng vẫn luôn hướng về cha mẹ, hướng về nơi chôn nhau cắt rốn của mình.
(Xem: 1511)
Bám chấp là nguyên nhân của mọi đau khổ, phiền não. Đó là những gì làm phát sinh trạng thái hữu và sinh.
(Xem: 1264)
Đạo Phậttôn giáo từ bỏ bạo lực một cách mạnh mẽ nhất trong mọi hình thức.
(Xem: 1252)
Trong mọi truyền thống Phật giáo đều có việc tụng kinh, từ Nam tông, Bắc tông cho đến Mật tông.
(Xem: 1384)
“Hãy ví khổ như rác và hạnh phúc như những đoá hoa… Chuyển hóa khổ đau chính là biết cách biến rác trở lại thành hoa” (Thiền sư Nhất Hạnh).
(Xem: 1416)
Phra Ajaan Lee Dhammadharo (1907-1961), là một trong những vị thiền sư theo truyền thống tu khổ hạnh trong rùng.
(Xem: 1328)
Bất kỳ ai trên thế gian này đều mong muốn tìm cho mình hạnh phúc, an lạc, mà những niềm vui, lạc thú trên đời này rất nhiều.
(Xem: 1656)
Câu hỏi là làm thế nào để đem lại sự an tĩnhan lạc nội tâm trong đời sống hằng ngày của bạn
(Xem: 1304)
Phật giáo thời Hậu Lê tuy không phát triển mạnh như thời Lý-Trần, nhưng thể hiện nên nét đặc sắc về nhiều mặt của Phật giáo
(Xem: 1310)
Những phương cách để đối phó với bệnh khi nó xảy ra là gì? Bình thường phản ứng của chúng tacảm thấy ...
(Xem: 1343)
Phật pháp quả là biển học vô bờ, muôn ngàn pháp môn phương tiện, tùy theo căn cơ trình độ chúng ta chọn và thích hợp với các pháp môn tu khác nhau.
(Xem: 1193)
Hiện nay, vấn đề Bảo vệ Môi trường đang rất được quan tâm ở khắp các nước trên thế giới.
(Xem: 1220)
Hiện nay, ô nhiễm môi trường ngày càng trở nên nghiêm trọngViệt Nam và trên thế giới.
(Xem: 1351)
Để lĩnh hội trọn vẹn “cảm giác an lạc” sinh khởi nhờ thiền định, đòi hỏi các thiền sinh phải có một nền tảng định vững chắc.
(Xem: 1463)
Một hôm Ngài A Nan hỏi Đức Phật ? Bạch Đức Thế Tôn, sau khi một chúng sanh qua đời họ sẽ tái sanh về đâu?
(Xem: 1518)
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng
(Xem: 1681)
Năng lễ, sở lễ tánh Không tịch Cảm ứng đạo giao nan tư nghì
(Xem: 1548)
Nắng như thiêu đốt suốt những ngày qua. Luồng gió nóng thốc qua sân nhà tưởng chừng làm héo hắt thêm cho những
(Xem: 1437)
Ngũ là năm. Uẩn có nhiều nghĩa, như: chắc chắn, nhóm, thành phần hay yếu tố
(Xem: 1230)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu biết về hơi thở.
(Xem: 1343)
Người tu ở một mình hay cùng với đại chúng, chuyên tu hay đi vào đời để hoằng phápsở thích, hạnh nguyện riêng của mỗi người.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant