Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Nhân Quả Qua Một Câu Chuyện

10 Tháng Mười 201607:43(Xem: 7554)
Nhân Quả Qua Một Câu Chuyện

NHÂN QUẢ QUA MỘT CÂU CHUYỆN 

Chân Hiền Tâm

Nhân quả qua một câu chuyện

Nhân quả là thực lý chi phối thế giới này.

Nghĩa là …

Mọi thứ đều có nhân duyên, không có thứ gì tự nhiênxuất hiện, dù là ở mặt vật chất hay tinh thần.

. Nếu mình có những ý nghĩ thiện và tạo được các hành vi thiện thì mình sẽ có được những cảnh giới tốt đẹp trong đời sống của mình.

. Nếu mình có những ý tưởng xấu và chẳng may mình thực hiện được những ý tưởng đó thì quả báo khổ nạn không sao kể xiết.

Xin nghe câu chuyệnHòa thượng Thiện Siêu đã kể:

Một hôm nọ, vua Ba-tư-nặc (Pasenadi) và hoàng hậu Mạt-lợi (Mallika) đến tịnh xá Kỳ Viên nghe Phật thuyết pháp. Vua cưỡi ngựa, còn hoàng hậu ngồi trên kiệu do 4 người Phiến-đề-la khiêng vác. Đến nơi, trong lúc vua và hoàng hậu vào nghe thuyết pháp thì 4 tên khiêng kiệu nằm chờ ở cổng tịnh xá. Trong lúc bọn chúng ngủ mê, một kẻ gian lén trộm lấy ngọc mani trên kiệu báu của hoàng hậu. Khi ấy cận vệ của hoàng hậu ra ngoài xem chừng, thấy mất ngọc Mani liền nghi 4 tên này ăn trộm, nên nổi giận lấy roi đánh tụi nó. Bị đánh đau quá, một tên bỏ chạy vào tịnh xá kêu oan làm mọi người chú ý.

Phật báo ngài A Nan:

- Người hãy ra bảo cận vệ đừng đánh oan người vô tội. Vì 4 người ấy chính là thầy đời trước của hoàng hậu.

Hoàng hậu nghe Phật nói như vậy, liền đứng dậy cung kính chắp tay bạch Phật:

- Bạch đức Thế Tôn ! Như lời Thế Tôn nói thì 4 người khiêng kiệu cho con chính là thầy đời trước của con. Con thật mê muội không rõ, cúi xin Thế Tôn từ bi nói rõ nhân duyên cho chúng con được biết.

Phật nói như sau:

- Trong một kiếp quá khứ, gặp lúc hạn hán, thiên tai, dân chúng đói khát, khi ấy có 5 vị Tỳ-kheo lười biếng không học giáo lý, kinh luận, không tu hành nghiêm túc nên không ai cúng dường, bị đói khát khốn khổ. 5 người bày mưu với nhau: Mỗi người đi xin, sắm được tọa cụ, tìm chỗ đồng trống quét dọn sạch sẽ, rồi làm bộ ngồi thiền nhập định để người đời trông thấy tưởng là thánh nhân, sẽ đem đồ ăn đến cúng dường. Quả nhiên đúng như vậy! Dân chúng từ từ đồn nhau tới cúng dường bậc thánh nhân.

Khi ấy có một nữ cư sĩ thuần thành tên là Đề Vi nghe tin đồn, liền sai người đi dò hư thực. Người đi dò tin về thưa rằng: “Có 5 vị thánh nhân ngồi tu trong núi, người ta đua nhau xúm lại hầu hạ cúng dường”.

Đề Vi nghe xong, trong lòng rất hoan hỷ, sai người sắm sửa hương hoa, kỹ nhạc, trăm món thức ăn đi đến chỗ 5 thầy Tỳ-kheo để cúng dường.

Đến nơi làm lễ, thiết đãi cúng dường 5 thầy Tỳ-kheo xong. Đề Vi và quyến thuộc cung kính chắp tay thưa với 5 thầy Tỳ-kheo rằng:

- Quý ngài là bậc chân tu, đức dày, phước lớn. Đệ tử muốn thỉnh quý ngài quang lâm đến bần xá, để trọn đời cúng dường hầu hạ. Nhà đệ tử có vườn cây thanh tịnh, suối ao trong mát, cúi xin quý ngài từ bi thương xót hứa khả.

Thấy bà Đề Vi và quyến thuộc thành khẩn cầu thỉnh đôi ba lần, 5 vị Tỳ-kheo nhận lời.

Đế Vi hoan hỷ từ tạ trở về, sai người chuẩn bị xe báu, đến rước 5 thầy Tỳ-kheo về nhà cúng dường. Nhà bà có vườn cây vuông vức mười mẫu, trong đó có suối trong, ao mát, nhiều hoa thơm quả lạ. Bà cho xây dựng phòng ốc bằng bảy báy, sắm đủ giường nệm và tọa cụ tốt đẹp, rồi mời 5 thầy Tỳ-kheo về ở và trọn đời cung cấp phụng sự đầy đủ.

Khi ấy, 5 thầy Tỳ-kheo được chủ nhân cúng dường hậu hỷ, khởi nghĩ rằng: “Có gì sung sướng cho bằng. Người ta sinh ra ở đời phải tìm mọi cách kiếm sống qua ngày, dù được như ý nhưng cũng không thể bằng bọn ta, chẳng nhọc thân mà lại được hưởng phước lợi, đây há chẳng phải nhờ sức trí tuệ hay sao?”

5 thầy Tỳ-kheo tuy được bà Đề Vi hết lòng trọng đãi, cúng dường đầy đủ các thứ cần dùng, nhưng lòng tham chưa thỏa, muốn kiếm thêm tiền của để sau này thọ hưởng riêng thú vui ngũ dục. Họ bàn với nhau rồi sai một người đi dạo trong làng xóm, rao nói mọi người :”4 thầy tỳ kheo kia, ở yên một chỗ vắng lặng, giữ gìn giới cấm, dứt hẵn rượu thịt, tu thiền chỉ quán, chứng nghiệp vô lậu. Chẳng bao lâu sẽ chứng quả A-la-hán, thật là bậc vô thượng phước điền trong thiên hạ”.

Nhiều người nghe thấy, đua nhau mang đến đủ thứ tiền tài ẩm thực, cung kính cúng dường… như thế nhiều năm. Còn bà Đề Vi vẫn một lòng tin kính, tiếp tục cúng dường, không chán. Sau khi chết, bà được tái sinh lên cõi trời Hóa Lạc.

Còn năm vị Tỳ-kheo kia, chuyên làm việc lừa đảo, lợi dụng lòng tốt của kẻ khác, nên sau khi mạng chung, sinh vào địa ngục tám nghìn ức kiếp chịu quả báo rất khổ. Sau khi hết tội địa ngục, phải chịu thân ngạ quỷ trải qua tám nghìn kiếp. Sau khi hết nghiệp ngạ quỷ, phải làm thân súc sinh để đền trả sự cúng dường đời trước cho chủ nhân.

Phật bảo vua Ba-tư-nặc:

- Bà Đề Vi thuở đó chính là hoàng hậu hiện nay, còn 5 thầy Tỳ-kheo, bây giờ là 5 người khiêng kiệu cho hoàng hậu.

Vua bạch Phật rằng:

- Theo như lời đức Thế Tôn nói thì có 5 người nhưng sao chỉ thấy có 4 người khiêng kiệu, còn một người nữa ở chỗ nào?

Phật bảo vua:

- Người thứ năm là người thưởng ở trong cung quét dọn cầu xí và đổ phân.

Hoàng hậu nghe xong rùng mình rởn ốc, ôm lòng kính sợ, bạch với Phật rằng:

- Thưa đức Thế Tôn! Nay con biết được họ là thầy con đời trước, lòng con rất lo sợ phạm tội. Bởi vì đối với bậc thầy của mình thì phải cung kính lễ bái mới phải. Mà nay trở lại sai khiêng kiệu không khác gì trâu ngựa. Vì nhân duyên đó nên con rất lo sợ, cúi xin Phật thương xót dạy con sám hối.

Phật bảo hoàng hậu:

- Hoàng hậu không có tội lỗi gì nên chớ kinh sợ. Chúng sinh nhiều căn tánh, hạnh nghiệp không giống nhau, làm lành thì hưởng phước, làm ác thì thọ tai ương. Hoàng hậu đời trước tâm thanh tịnh, ưa cúng dường các bậc tu hành, nhờ phước đức đó nên sinh ra mỗi kiếp thường gặp minh sư. Cho đến ngày nay, hưởng phước gặp Phật ra đời, được nghe Chánh pháp, tín thọ phụng hành, nên không có tội lỗi chi.

Sau khi nghe Phật khai thị, hoàn hậu muốn tha cho bốn tên Phiến-đề-la, không dám sai khiến nữa và cầu xin Phật thuyết pháp cho chúng hiểu đạo, bỏ ác tu thiện để mau thoát khổ.

Phật bảo hoàng hậu:

- Nay nếu muốn Ta khai hóa thì phải gọi người đổ phân trong cung lại đây luôn.

Hoàng hậu liền sai sứ đi gọi người thứ năm đến. Sứ giả vâng lệnh đi gọi, trong giây phút cả 5 người Phiến-đề-la nhóm lại đứng trước Phật.

Đức Thế Tôn từ bi hỏi thăm:

- Các ngươi thân thể có được mạnh khỏe, an ổn, vui sướng chăng?

Năm người nổi giận nói rằng:

- Chúng tôi ngày đêm cực khổ, bị đánh đập sai sử không được nghỉ ngơi, có vui sướng gì đâu, Phật há không biết hay sao mà lại hỏi các ngươi có an ổn, vui sướng chăng?

Phật bảo 5 người rằng:

- Sự khổ của các ngươi ngày nay đều do đời trước gian dối nịnh hót, đem tâm bất thiện, lường gạt người khác, để thọ hưởng cúng dường. Nghiệp tội đó đền trả đến nay còn chưa hết. Nếu muốn thoát khỏi quả báo ác thì phải hết lòng sám hối, cải dữ tu hành.

Bọn Phiến Đề La nghe Phật nói, đùng đùng nổi giận quay lưng đi, không muốn nghe nữa. Phật bèn dùng thần lực hiện ra một hóa Phật đứng trước mặt bọn chúng, dùng phương tiện khuyên bảo sám hối. Nhưng bọn chúng tức mình quay mặt về hướng Đông. Cũng thấy hóa Phậttrước mặt. Quay về hướng Tây, cũng có hóa Phật. Quay hướng nào cũng đều có Phật đứng trước mặt. Bọn chúng bí quá la lên:

- Chúng tôi là người tệ ác. Phật không thương xót mà còn bao vây, áp đảo thêm nữa!

Khi ấy, Thế Tôn liền thâu nhiếp hóa Phật lại thành một Phật và bảo đại chúng:

- Các ngươi phải biết chúng sinh tội nghiệp có hai món chướng. Một là nghiệp chướng, hai là phiến não chướng. Người tội nhẹ thì có phiền não chướng, người tội nặng thì có nghiệp chướng. Bọn Phiến Đề La đây có đủ hai chướng. Ví tội chướng quá nặng nên không thể nghe được lời giáo hóa của Phật.

Hoàng hậu thấy Bọn Phiến Đề La không chịu nghe lời Phật giáo hóa, buồn cảm thương tâm nói với năm người rằng:

- Ta nay đã rõ nhân duyên đời trước nên tha cho các ngươi, muốn đi đâu tùy ý.

Bọn chúng quỳ gối khóc lóc thưa với Hoàng hậu:

- Muôn tâu lệnh bà, chúng tội phụng sự hầu hạ không biết có lỗi gì mà lệnh bà lại đuổi chúng tôi? Nếu có gì không vừa ý, cúi xin lệnh bà rộng lòng tha thứ, cho chúng tôi hầu hạ như trước.

Hoàng hậu khiêm nhường từ chối đôi ba lần, nhưng bọn Phiến-đề-la nhất định ở lại, không chịu đi đâu hết. Túng thế Hoàng hậu cầu cứu đến Phật:

- Thưa Thế Tôn! Con thiệt tình dung thứ cho bọn Phiến-đề-la mà chúng nhất định không chịu đi, nhất định ở lại trả nợ, vậy phải làm sao đây?

Phật bảo hoàng hậu:

- Bọn chúng trả nợ đời trước chưa hết, nhân duyên bó buộc nên không đi được. Hoàng hậu chẳng cần làm sao, cứ để chúng phụng sự như trước, đến khi nào trả hết nợ tự động chúng sẽ ra đi.

Mới thấy…

. Nếu tâm địa mình lương thiện, mình có tâm tôn trọng Phật – Pháp – Tăng thì dù mình có cúng dường nhầm người, quả báo mình nhận được vẫn tốt. Ở đây, cần phân định cho rõ: Phu nhân bị 5 người kia dùng bề ngoài lường gạt, thành Phu nhân cúng dườngcúng dường cho bậc chân tăng. Không phải thấy 5 người kia bê tha, đội lốt tăng chúng mà vì tư tình, vì được thỏa mãn cái tôi mà vẫn cúng dường. Phu nhân chỉ vì lòng tôn trọng Phật – Pháp - Tăng mà cung dưỡng. Do tâm đó mà quả báo Phu nhân nhận được vẫn tốt đẹp. Với tâm lượng sau thì quả báo không như vậy. Cho nên, trong kinh Niết-bàn Phật nói “Nến cúng dường cho người đáng cúng dường. Không cúng dường cho người không đáng cúng dường”.

. Nhân gây rồi nếu không chuyển tâm tu hành thì sẽ trả quả cho hết mới thôi. Có tha cũng không chịu buông.

. Dùng áo Như Lai để gạt gẫm chúng sinh mưu lợi, quả báo đọa địa ngục vô lượng kiếp, làm thân ngã quỉ vô lượng kiếp, rồi sau mới làm trâu làm ngựa trả cái quả ấy.

. Tâm sân hận khiến chúng sinh không thấy được lẻ phải, không nhận được điều tốt đẹp trước mắt. Dù Phật có hiện ra trước mắt cũng không thể thấy. Tâm sân hận đáng sợ như vậy. Cần cẩn thận với tâm sân hận của chính mình.  

. Nghiệp của chúng sinh, nếu không tự chuyển tâm cứu mình thì dù có năng lực tu hành như Phật cũng chẳng thể cứu. 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 1546)
Tham luận “The Way to World Peace via an Integrated Kantian and Buddhist Perspective” được tác già trình bày tại Diễn Đàn Phật Giáo
(Xem: 1403)
Xuyên qua các nguyên tắc để tạo điều kiện hưng thịnh cho một quốc giathiết lập một xã hội thanh bình, đức Phật cũng có những bài thuyết pháp rất rõ ràng về các lãnh vực chính trị, chiến tranh, hòa bình, điểm này đã được phổ cập hóa trong cộng đồng xã hội. Đức Phật luôn chủ trương bất bạo động, xóa bỏ hận thù, tái lập tình thươngkiến thiết hòa bình chân chánh.
(Xem: 1820)
Bản Ngã Càng Lớn, Sĩ Diện Càng Nhiều, Càng Dễ Bị Tổn Thương.
(Xem: 1575)
Thân mạng chúng tachúng ta không biết yêu thương thì làm sao chúng ta có đủ yêu thương để gửi đến người khác.
(Xem: 1347)
Mỗ là quan chức thường thường bậc trung, tuy chưa phải là đại gia nhưng cũng có thể gọi là gìau sang có máu mặt.
(Xem: 1637)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phòng hộ các căn (bảo vệ các giác quan) được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 2159)
Quán tưởngphương pháp Phật tử áp dụng hằng ngày, luyện cả thân tâm, đem lại sự hòa hợp giữa tinh thầnvật chất, giữa con ngườithiên nhiên.
(Xem: 1904)
Hành động phản ánh được ý thức, tính cách của mỗi người, lời nói, suy nghĩ thế nào sẽ biểu hiện ra hành động như thế đó,
(Xem: 1263)
Hôm ra mắt đợt đầu 29 cuốn của Thanh Văn Tạng trong công trình phiên dịch Đại Tạng Kinh Việt Nam do Hội Đồng Hoằng PhápHội Đồng Phiên Dịch Tam Tạng Lâm Thời tổ chức tại Little Saigon, Miền Nam California, Hoa Kỳ, vào ngày 19 tháng 3 năm 2023
(Xem: 1443)
Đạo Phật được biết đến như một tôn giáo hiền hòa nhất và điều đặc biệtcuộc đời vị lãnh đạo tinh thần tối cao của đạo Phật gắn liền với những cái cây.
(Xem: 1438)
Là một tiến trình tự nhiên của con người và muôn loài, bệnh vốn là một giai đoạn của vòng luân hồi sanh tử, là một phần của quy luật thành - trụ - hoại - không.
(Xem: 1728)
Dĩ nhiên là người phàm chúng ta không ai thấy được địa ngục, trừ Đức Phật và các bậc Thánh La-hán.
(Xem: 1483)
ghiệp là tất cả những hành động có tác ý, biểu hiện thường xuyên bằng thân, khẩu, hay ý.
(Xem: 1349)
Phật giáo không chỉ chủ trương từ bi đối với con người, tôn trọng đối với mọi sinh mệnh mà còn phải bảo vệ môi trường sống thiên nhiên,
(Xem: 1491)
Thật sự chúng ta chỉ có một trách nhiệm, tìm đọc và tìm hiểu những lời Phật dạy thật sự là những lời dạy của đức Phật,
(Xem: 1432)
Trước đây, vào thời niên thiếu, tôi chưa từng tín ngưỡng bất kỳ một tôn giáo nào. Tôi đang đứng giữa ngã tư đường, không Phật cũng không Đạo.
(Xem: 1759)
Mỗi người trong chúng ta, ai cũng có một cái “Tôi” và tính chấp thủ, nhưng có người ý thứcquán chiếu được điều đó
(Xem: 1457)
Cửa vào bất nhị, còn gọi là pháp môn bất nhị, từ xa xưa đã được truyền dạy từ thời Đức Phật, chứ không phải là hậu tác của chư tổ Bắc Tông,
(Xem: 1415)
Nhưng giới khoa học vẫn còn hoang mang trong nhận định thế giới vật chất đời thường là ảo, không có thực thể.
(Xem: 1431)
quan niệm rằng người có danh phận, giàu sang là do phước và cúng dường, hộ trì người có phước thì được phước nhiều hơn?
(Xem: 1502)
Hai từ chiến tranh, không ai trong chúng ta là không nghe đến. Trong quá khứ đã có rất nhiều cuộc chiến tranh xảy ra trên quả địa cầu nầy,
(Xem: 1691)
Kinh Thủ Lăng Nghiêm có tên gọi đầy đủ là :"Kinh Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân Tu Chứng Liễu Nghĩa Chư Bồ Tát Vạn Hạnh Thủ Lăng Nghiêm",
(Xem: 1590)
Tôi nhớ lần nào gặp Đại sư cũng thấy Ngài mặt mày hồng hào, tinh thần khang kiện.
(Xem: 1531)
Trong rất nhiều phương pháp tu tập thì phương pháp phòng hộ các căn môn được Đức Phật giảng dạy rất chi tiết.
(Xem: 1407)
Kể từ khi con người biết xử dụng tiền bạc làm đơn vị trao đổi mua sắm đến nay, thì không ai là không cần đến tiền!
(Xem: 1495)
Đối trong nhà Phật thì thế gian gồm có khí thế gianchúng sanh thế gian.
(Xem: 1209)
Đây là một trường hợpThiền sư Thích Nhất Hạnhcộng đồng của Thầy đã thay đổi cuộc đời của một người.
(Xem: 1971)
Tam tam-muội là chỉ cho ba loại định, tức là ba loại pháp môn quán hành của Phật giáo, được xem như là nguyên lý thực tiễn của Thiền định. Định có nghĩa là tâm hành giả trụ vào một đối tượng nào đó khiến cho ý không bị tán loạn, dần dần tâm ý trở nên trong sáng và phát sinh trí tuệ.
(Xem: 1387)
Đời tôi gần giống như cuộc đời của cậu bé mồ côi ở Viện Dục Anh trong văn Vũ Trọng Phụng. Chúng tôi đều sinh ra dưới một ngôi sao xấu. Từ những ngày còn bé tôi đã không có một cái gì để gọi là riêng tư. Đời tôi gắn liền với tập thể, lớn lên và nương tựa vào tập thể.
(Xem: 1540)
Để giúp người Phật tửđời sống đạo hạnh, đức Thế Tôn đưa ra năm giới căn bản.
(Xem: 2905)
Tinh thần hòa hiệp là ý nghĩa sống lành mạnh an vui, tinh thần của một khối người biết tôn trọng ý niệm tự tồn, và xây dựng vươn cao trong ý chí hướng thượng.
(Xem: 1546)
Khi con gái tôi còn nhỏ, tôi vẫn thường đưa con đến chùa lễ Phật, học tiếng Việt, sinh hoạt văn hóa Việt…
(Xem: 1736)
Điều phi đạo là những việc dẫn đến sự hao tài, thứ nhất đó là đam mê cờ bạc.
(Xem: 1588)
Chu Lợi Bàn ĐặcMa Ha là hai anh em sinh đôi sinh ra trong một gia đình Bà la môn ở thành Xá Vệ (Sravasti - Ấn Độ).
(Xem: 2034)
Nếu có ai đó hỏi Phật Pháp có gì hay thì những người đệ tử Phật sẽ trả lời như thế nào?
(Xem: 1577)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1776)
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử do Phật Hoàng Trần Nhân Tông khai sáng trong khoảng cuối thế kỷ 13.
(Xem: 1976)
Trong suốt cả Pháp Bảo Đàn Kinh, là những lời dạy của Lục Tổ, ngài chỉ hai lần nói đến hai chữ “từ bi”:
(Xem: 2171)
Thông thường, người ta thường nghĩ “làm phước” là phải làm điều gì đó to lớn, mang tính cho và nhận bằng những vật phẩm...
(Xem: 1641)
Từ góc độ văn hóa có thể thấy ở Phật giáo Việt Nam nói chung và Thiền phái Lâm tế Chúc Thánh nói riêng, có những giá trị văn hóa tiêu biểu
(Xem: 2610)
Đối với người thế gian, tài sản quý giá nhất của họ chính là gia đình, của cải vật chất, công danh sự nghiệp, nhưng với người xuất gia thì đó là trí tuệ.
(Xem: 1706)
Phàm có sinh thì có tử, đó là lẽ thường trong cuộc đời. Vạn sự vạn vật đều vận hành theo quy luật sinh ra, tồn tại, thay đổi, hoại diệt (gọi là sinh, trụ, dị, diệt)
(Xem: 1887)
Nguyễn Du không những là một thi hào lớn của Việt Nam mà còn là nhà Phật học uyên bác. Ông từng viết trong bài thơ “Chiêu Minh Thái Tử Phân Kinh Thạch Đài” lúc đi sứ sang Tàu vào triều Nguyễn, đầu thế kỷ 19 rằng,
(Xem: 1849)
Việc chọn “ngày lành tháng tốt” để tiến hành những công việc hệ trọng trong đời sống của người Việt, được biết bắt nguồn từ thói quen do ảnh hưởng văn hóa, tập tục cổ xưa
(Xem: 1613)
Phật giáo trước hết là một tôn giáo, vì thế những tư tưởng của giáo lý Phật giáo không đề cập nhiều tới những vấn đề triết học...
(Xem: 2355)
“… Đêm qua trăng mọc trên đồi, thấy tâm tịch lặng không người, không ta, ai hỏi thì nhấc cành hoa, thấy gì, được thấy, đều xa muôn trùng …”
(Xem: 1792)
Tôi thường thắc mắc tại sao mình dự tính làm điều này thì có khi lại đổi sang làm chuyện khác mà mình không hề suy tính được.
(Xem: 1850)
Sống trong đời này, chúng ta thường hay nghe những ngôn từ bình dị, than thở rằng: “Trần ai - trong cõi tạm, là gì - ra sao?”
(Xem: 1718)
Theo kinh Đại bát Niết-bàn (Trường bộ kinh), trước lúc viên tịch, Thế Tôn an cư mùa mưa tại Baluvā, bị bệnh trầm trọng, rất đau đớn.
(Xem: 2092)
Khi mới vào đạo, điều đầu tiên chúng ta được dạy là không nhìn lỗi của người khác.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant