Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

7 Bước Đến Miền Cực Lạc

15 Tháng Mười Một 201618:32(Xem: 8016)
7 Bước Đến Miền Cực Lạc
7 Bước Đến Miền Cực Lạc

Nhụy Nguyên

7 Bước Đến Miền Cực Lạc


1.

Mùa an cư của giáo đoàn Siddhatta bình lặng giữa mùa sala hé nụ. Đoàn khất sĩ ngày thêm đông. Rừng sala như một lễ hội bắt đầu…

Mùa kiết hạ sắp tới. Đức Phật rất lấy làm mãn nguyện với khu rừng ngập tràn hoa sala vốn của thái tử Jeta này. Hôm giáo đoàn của người đặt chân đến, không một bình bát nào được người dân cúng dườngbằng đồ chay. Vương quốc của thái tử Jeta vừa chinh phạt xong nước Vajji. Cả thành Bhagalpur ngây ngất trong chiến thắng, nhà nhà mổ gia súc ăn mừng. Không ai được khóc. Còn vua Pasenadi thì chuẩn y ngay lời của Govinda cho tuyển gấp một trăm cung nữ để tẩy rửa bụi bặm và máu trên mình.

Dưới một gốc cổ thụĐức Phật mở mắt thì trên đầu, vai và quanh người lả tả hoa sala còn thắm. Người nâng từng cánh mỏng, niệm chú rồi đặt xuống. Vạn vật có sinh có diệt. Hạnh từ bi của ngài thấm vào những cánh sala vừa chuyển kiếp sau một đêm tiết hương cho sự an tịnh của cả khu rừng. Đêm xuống, hương sala dịu nhẹ, ngọt, len vào giấc thiền. Những sa môn và các đại đức ngồi quán hơi thở vô tình nương hoa sala chìm vào an lạc. Số người mớinhập môn, hương sala khiến họ không thể nhiếp tâm. Một chút buồn, chút lo âu, và nhớ…

Asidana nhớ ngôi nhà mình cất công đẵn gỗ từ rừng Besarh về; nhớ dòng nước mắt của Malyahassa… “Asidana ơi, rồi em sẽ có con, chúng mình sẽ có con”. “Không đâu. Thời gian đã chối từ niềm hi vọng của em rồi, Malyahassa. Âu cũng là duyên để anh không vướng tục trần. Hãy để anh về với Buddha! Người sẽ chỉ cho anh con đường giải thoát, và cả em nữa…”. Mẩu đối thoại nhức nhối tâm can mỗi lần Asidana muốn tĩnh tại. Mở mắt, Asidana hết đỗi ngạc nhiên: bên mình một “cục bột” đang thiền. Buddha. Không thấy có hơi thở. Asidana toan dời chỗ, cục bột bỗng lên tiếng:

- Này Asidana, con định dịch chuyển tới đâu trong rừng sala này? Nếu ta là hổ, thì con vụt chạy về nhà sao?

- Thưa Buddha...

- Ta thấy hình như con đang bị ràng buộc quá chặt bởi thất tình lục dục, nên mới đến hỏi cho ra nhẽ. Asidana này, có ai tới bờ giác bằng hai chân trên hai chiếc thuyền không? Có ai một tay nắm Phật pháp mà tay kia không chịu buông nhân duyên phiền lụy?

- Thưa Buddha, con đã quyết tâm xả bỏ nghiệp duyên…

- Ta hiểu. Không ai hễ tu là đắc chánh quả ngay. Chân tâm tự tánh chẳng dễ hiển lộ. Chính ta xưa cũng từng lòng vòng mất bao nhiêu thời gianPhật pháp vô biên. Asidana, ta hiểu lắm. Con có thể dễ dàng bỏ tất cả mọi đam mê trong biển người thường, nhưng tình cảm luyến ái là khó nhất. Nhục dục như vũng bùn nhơ. Con càng tận hưởng càng bị dìm xuống sâu thêm... Rồi một trong hai con, sẽ có người chuyển kiếp trước, vô lẽ khi đó con (hay vợ con) cứ héo hắt, tàn lụy mà chết? Đó là ta chưa nói đến những vận hạn bất ngờ. Con nhớ vợ con. Ở rừng sala này không ai cưỡng chế con thôi nhớ vợ. Nhưng con có nhớ bao cô gái thuộc đẳng cấp hạ tiện ngày ngày hiến thân cho ngạ quỷ? Con có nhớ những thanh niên vắt kiệt sức mình trên cánh đồng lương thực ở Campa, Gaya, Nalanda? Con ích kỷ mà con không biết. Vì con thiếu hạnh từ bi.

 

2.

Tuần chăn chiếu sau buổi ăn trưa khiến vua Pasenadi không thể ngủ yên. “Quyền lực của ta không thể sai khiến được thần Mặt trời!”. Ngáp dài, ngài lại ngó ra sân thượng Tử cấm thành trắng xóa. Một sự khiêu khích, rằng chính thần Mặt trời mới không thể bị bất cứ quyền lực tối thượng nào sai khiếnÁnh nắng lưng chiều đang trùm sự chết lên cung điện Kosala.

Biệt cung Pasenadi, màu đỏ. Từ cột kèo, hoa văn, mái ngói, cho tới mành che… tất tật đều đỏ. Chỉ mỗi tấm vải trải nệm giường là trắng.

Cái ngáp dài của vua. Tấu sớ thoi thóp nằm im trong ống áo quan thần. Govinda cũng chưa kịp dâng sớ, lệnh bãi triều được ban. Các quan lục tục ra về, Govinda cứ thụt tới thụt lui…

Pasenadi thôi ngáp vào lòng tay.

- Govinda, ngươi có việc gì sao?

- Tâu Bệ hạ, thần có... sớ.

Vua khoát tay:

- Ngày mai hãy dâng. Bây giờ ta phải tới thăm Hoàng hậu.

Pasenadi bước đi, chợt dừng lại.

- Này Govinda, việc tuyển cung phi ngươi lo đến đâu rồi?

- Tâu. Thần đã cho cận vệ lùng soát khắp thành Bhagalpur, cả vùng ngoại ô. Vài hôm nữa thần đích thân tới đón về cho Bệ hạ.

 

3.

Cũng mươi ngày rồi, Pasenadi không tới thăm người vợ được tuyển từ hơn một ngàn cung nữ. Những trò tiêu khiển mà Govinda bày ra luôn chiếm hết thời gian của ngài. Gã bị Hoàng hậu nhắc nhở nhiều lần; Mallika cũng khuyên vua không nên nghe lời can gián của Govinda.  

Pasenadi đến cung Hoàng hậu Mallika với vẻ uy nghiêm kiêu hãnh. Từ hơn một năm qua, việc đến với Mallika ngài luôn xem đó là sự ban ơn.

Cô hầu của Hoàng hậu đón Pasenadi. Đợi. Ngài vẫn có thể kìm nén ít phút. Và khi cánh tay của ngài sắp vung lên cùng tiếng gằn của loài động vật ăn thịt sống, thì Mallika bước ra. Hoàng hậu không giống Hoàng hậu. Mallika thua cả cách ăn mặc của một gái hầu. Đôi dép thường, bộ đồ giản dị, tóc không trâm cài, không cả đôi hoa tai bằng ngọc… Hễ Pasenadi nổi thịnh nộ, mặt ngài rúm lại những đường nhăn ở trán và sống mũi, giống y hổ cái giữ con khiến bất cứ ai xanh nhợt.

Mallika cúi mình… Pasenadi bước tới đỡ Mallika. Ngài nhìn rất kỹ khuôn mặt Mallika lần đầu tiên không son phấn. Khuôn mặt phúc hậu thiên thần, làn da sáng bóng khơi dậy chút mặc cảm hiếm hoi của Pasenadi. Ngài dìu Mallika ngồi xuống. Đám gái hầu lùi ra cho tới lúc hai cánh cửa khép lại.

“Thưa Hoàng thượng, thiếp không thể”. Những nếp nhăn xô lại, Pasenadi cũng đứng dậy. “Mallika!... Phải chăng nàng…”. “Thưa không.” “Nàng ốm?” “Thưa Hoàng thượng, không…”. Cánh tay của Pasenadi vung nhẹ: “Nàng kháng chỉ?!” Hai mũi tên vô hình cắm vào chân, Mallika gập xuống: “Thưa Hoàng thượng, thần thiếp không dám.” Mallika cúi gầm mặt. “Thần thiếp muốn xuất cung làm đệ tử của Buddha!”.

Pasenadi bất thần rụt tay. Lùi. Ngài thét: “Mallika! - sắc mặt sa sầm giông tố - nàng điên rồi!”

 

4.

Mặt trời rọi luồng sáng ấm nóng vào tận căn phòng An Lạc của Govinda. Thật hiếm khi gã được phép dậy muộn như vậy. Lâu rồi, không sáng nào gã được thấy mặt thần Hélios. Thường, chưa rõ mặt gái hầu quanh giường gã đã phải bò dậy tới chực chầu, trong lúc vua còn vùi mình giữa ngổn ngang cung phi...

Govinda duỗi thân - cái duỗi của một sư tử chúa, căng mọi gân cốt, móng vuốt, hàm răng, và lưỡi. Niềm sảng khoái tồn lại từ đêm qua.

Govinda mất trọn buổi chiều nghĩ ra trò hoan lạc từ thân thể một cô gái không đẳng cấp lôi về từ vùng quê hẻo lánh. Govinda không có hồ Thiên Nga rộng lớn như Pasenadi song gã không thiếu thiên nga. Để nuôi dưỡng bầy chim thiên nga, vua đã cho xây một hồ nước dài hút mắt, đứng bên này hồ, mỗi thiên nga bên kia là một chấm trắng nhỏ nhoi. Từng bầy thiên nga ở khắp lãnh thổ Kosala, từ vương quốc Kasi, Vatsta đều thiên di tới sinh sống. Những đôi thiên nga không rời nhau nửa bước chính là món ăn Govinda ưa thích...

Cô gái đẳng cấp hạ tiện được nằm trên giường của Govinda. Có thể chính gã là người đầu tiên xóa sự phân định đẳng cấp trong vương triều Kosala. Và gã đã có giấc ngủ sâu đến từng ngách tủy sống.

Govinda tủm tỉm, nhấm nháp ánh vàng của buổi mai vương trên lá cành, lầu son gác tía. Mãi tới lúc cô hầu mời vào dùng bữa gã mới sực tỉnh, rằng phải lên đường.

Công việc của gã cũng không mấy nhọc nhằn. Tất thảy những cô gái đẹp trong vương quốc Kosala được tên cận thần dẫn lính lùng sục, “đánh dấu”. Giờ đây gã chỉ việc đến từng địa chỉ, lùa hết bọn họ về cung, và ở đấy tiếp tục có cuộc sàng lọc gắt gao. Pasenadi giao cho gã “kiếm cho bằng hết gái đẹp”. Không gì phải vội. Hôm nay Govinda cần tới một nơi khác.

 

Đền Khajuraho nằm ở miền Trung. Govinda lâu lâu lại tới đây để… cầu nguyện. Nhưng thường gã chỉ vòng vèo bên ngoài. Mắt no tròn trước vô số hình giao hoan được khắc chạm tinh vi sống động ở khắp bề mặt ngôi đền. Theo hiểu biết nông cạn của gã, chính Ngọc Hoàng Indra đã “xúi” những nhà điêu khắc tài ba làm nên một bức phù điêu cảm khoái bất tận. Không đếm được bao lần Govinda tới đây. Gã dạo quanh Khajuraho. Ngắm nghía. Sờ mó. Và mỗi khi gã chỉ tay thốt lên: “Đây”, lập tức tên danh họa chen tới, “truyền thần” thành một bức họa mang về cho gã. Ngôi đền Khajuraho, nguồn xung động ấy có thể cày xới, lật tung mọi kinh mạch chưa từng được đánh thông của gã, cứu rỗi linh hồn mỗi khi gã gần như bị đánh bật khỏi vương quốc Kosala.

Mỗi bận tới đây, Govinda đều cúng dường vô số của ngon vật lạ, vốn là thứ tồn kho của gã. Gã nhớ không rõ nữa, hình như gã từng được vời vào sâu trong đền để các Brahman ban phướcDĩ nhiên, gã phải quỳ trước thần Brahma đến run bần bật, long cả bánh chè.

Bước khỏi đền, gã vô cùng bực dọc, song lại có chút hân hoan. Không hề giống nét mặt của cô gái Govinda bắt gặp sáng nay. Tự nhiên gã chú ý đến một cô gái ở đẳng cấp Sudra. Cô gái hút gã. Sự phân định đẳng cấp trong xã hội luôn mang tới cho Govinda nhiều quyền lợi. Người trong đẳng cấp Ksatriya của gã không ai để thân ô uế đến mức chạm vào bóng của hạng tiện dân. Nhưng với gã thì khác. Ý nghĩ thoáng qua đó khiến gã lại nhớ cô gái nô lệ mình đêm qua...

Govinda chặn cô gái.

Cô gái né, đi thẳng.

Govinda gọi tên cận vệ: “Hãy làm theo cách tuyển cung nữ”.

Ngưng bước, chắc cô ta nghe thấu lời gã… Cô quay quỳ xuống.

- Thưa Đại vương. Tôi đã có chồng!

- Ngươi phải theo ta về hầu hạ vua Pasenadi đáng kính.

- Thưa, danh vị của đấng Quân vương không thể bị bôi nhọ bởi một phụ nữ đã có chồng được.

Cô đứng dậy, bước rất nhanh. Hồi nãy cô đã chạm tay vào đầu linga to nhất trong đền Khajuraho. Khấn nguyện… “Xin người hãy lôi Asidana khỏi khu rừng sala. Hãy cho chồng con trở về với con. Nếu quả thực chồng con không tưởng đến con nữa…”.

Cô gái đi rồi, Govinda lệnh: “Hãy theo cô ta! Đọc dụ tuyển phi cho cô ta nghe! Đánh dấu nhà. Ta sẽ tới bắt về sau! Nhớ, không để cô ta sợ”.

Gần tới thành Bhagalpur, Govinda đang định trọ lại đâu đó kiếm vài trò tiêu khiển, có người phi ngựa tới:

- Thưa Đại thần Govinda. Giáo chủ Charya mời ngài về gấp bàn nghị sự.

 

5.

Hôm qua là một ngày ý nghĩa: rừng sala đón hàng trăm tín đồ từ giáo phái Bà la môn. Phật phải nhờ tới Đại đức Sariputta và Đại đức Moggallana làm lễ cho họ quy y.

Tịnh xá của Phật nằm hướng Đông, mặt hướng về vương quốc Sakya. Thi thoảng khuôn mặt ngoan hiền vờ chìm vào giấc ngủ của Yasodhara trong cái đêm Buddha rời bỏ gia đình vẫn thoáng qua. Nó là một vệt trắng mờ ảo như đôi thiên nga sánh mình nơi xa thẳm. Vương quốc Sakya có thể không còn cần đến Phật như lời vị chiêm tinh dự đoán về một đấng minh quân kiệt xuất của lịch sử ngày Thái tử Siddhatta chào đời. NhưngĐạo pháp thì nơi đâu cũng cần. Vương quốc Sakya, vua Suddhodana, hoàng hậu Gotami, Yasodhara, và khúc ruột của người - Rahula. Đức Phật đang tính đến một chuyến hành hương trở về Kapilavatthu sau mùa an cư.

Ngày, sự nối dài của đêm trong mỗi giấc thiền. Đức Phật nhập định suốt đêm qua và cả buổi sáng, mở mắtthì quá nửa giáo đoàn đã vào thành Bhagalpur khất thựcĐại đức Sariputta bưng nước tới để Phật rửa mặt.

- Đã đúng ngọ rồi thầy Sariputta ạ. Thầy có đi vào thành cùng ta bây giờ không?

- Dạ. Nếu không phải là một gia đình nào đó mời Thế tôn tới nhà thọ trai thì con xin theo.

Đức Phật mỉm cười.

Hai người ôm bình bát chưa khỏi rừng, Đức Phật chợt dừng.

- Sariputta. Thầy đi khất thực một mình đi.

- Thưa Thế tônThế tôn quên gì sao? Để con đợi.

- Không đâu. Ta có chút việc. Thầy cũng đừng để dành phần cơm cúng dường cho ta.

Nói đoạn Phật quay lại tịnh xá. Người ngồi ngay ngắn, sửa áo cà sa che thế kiết giàVừa lúc sa môn Narayan dẫn một người tới. (Narayan là một trong những tín đồ từ giáo phái Bà la môn mới được nhập môn).

Cô gái cúi lạy Phật.

- Thưa Đức Buddha, con xin phép được cúng dường ngài.

Narayan ngồi xuống phía sau Phật, mắt nhìn đăm đăm cô gái.

- Narayan, sao con không khất thực cùng mọi người?

- Dạ…

- Được rồi. Ngày mai con sẽ được theo Đại đức Moggallana. Đại đức sẽ là thầy của con. Hôm nay con thọ trai cùng ta cũng được.

Rồi Phật hướng về cô gái:

- Con là...

- Malyahassa.

Cô gái ngẩng mặt.

- Con đến cúng dường cho ta?

- Thưa Đức Buddha…

- Con đến cúng dường cho ta hay con muốn tìm chồng của con - sa môn Asidana?

Malyahassa cúi gầm mặt.

- Thưa Đức Buddha, xin cho con được cởi bỏ tục trần…

Đến lượt Phật tỏ vẻ ngạc nhiên:

- Này Malyahassa, con không dối lòng trước mặt ta đấy chứ?

- Dạ… Thưa Đức Buddha, nếu thực chồng con không trở về với con nữa…

- Sao nào?

- Con sẽ chết!

Giọng Phật trầm ấm:

- Malyahassa! Con ngẩng mặt lên đi. Ta nói điều này có thể con không tin. Nếu con tự kết thúc sinh mệnhcủa mình, nghiệp con phải gánh, tương đương với giết một người. Con có biết không? Trong vòng luân hồinghiệp báo, biết đâu con đã trải qua kiếp súc sanh? Malyahassa này, có được thân người không dễ. Thân người cấp cho con là một ái nữ đó, là để con tu luyện đặng trở về chân nguyên tự tánh.

Malyahassa sụt sùi. Nước mắt lã chã vào bình bát của Phật khi Malyahassa đặt cơm vào.

- Thưa Đức Buddha, con xin được quy y. Con xin nghe theo lời chỉ dạy của người.

- Malyahassa, con vẫn chưa hiểu hết điều ta nói… Ta không thể đồng ý nhập con vào giáo đoàn được.

- Thưa… con không hiểu.

- Hiện nay trong giáo đoàn chưa có ai là nữ. Ta cũng chưa có ý nhận nữ nhi vào giáo đoàn bởi thấy nhiều điều còn bất tiện.

Malyahassa phục quỵ, khóc thành tiếng.

- Malyahassa! Hồi nãy ta đã hỏi: con vào cúng dường cho ta, hay muốn gặp chồng con; bây giờ ta hỏi: con muốn quy y, hay đặng chạy trốn nghiệp nạn?

 

6.

Cũng không kịp dùng bữa, Govinda hấp tấp dẫn theo hai thị vệ thẳng tới thư phòng của vua. Pasenadi triệu gấp gã tới có việc gì? Hay... Gã thấy sợ, run đến suýt nhào xuống ngựa. Từ lúc tên thái giám bước vào phủ, Govinda đã nhận ra điều chẳng lành. Là người của gã và luôn theo sát mọi hành động của vua, nhưng tênthái giám một hai quả quyết hắn không hay chuyện gì. Chuyện gì? Có thể đúng, vua biết chuyện gã tính bắt một cô gái thuộc đẳng cấp hạ tiện đã có chồng dâng cho ngài. Vậy thì chuyện lớn rồi. Giáo chủ Charya cũng khó lòng bảo lãnh cho cái đầu của gã. Pasenadi vốn là một tướng thiện xạ, từng phăn không biết bao đầu người lăn lóc dưới chân ngựa sa trường.

Ngài đấm mạnh xuống án thư. Govinda giật nổi người. Gã không dám đối diện với bộ mặt xô lại các nếp nhăn y một con hổ đói trong rừng Besarh.

- Govinda! Cái tên Buddha ngớ ngẩn gì đó, hắn là thần Indra của vương quốc này sao?

Govinda thở ra hơi dài, tống khứ khỏi người âm khí, nhẹ nhõm.

- Tâu Bệ hạ, Siddhatta Gotama vốn là Thái tử của vua Suddhodana. Cũng như Jeta của Bệ hạ. Nhưng từ lúc sinh ra Siddhatta đã có dấu hiệu đặc biệt…

- Ngươi cứ tiếp tục.

- Muôn tâu… thần không dám.

- Nói.

- Dạ. Khi Siddhatta sinh ra, một đạo sĩ Bà la môn tiên tri phán: “Thái tử sau này sẽ là một vị chuyển luân thánh vương trị vì cả bốn cõi”.

- Sao bây giờ hắn là một người nom rất thảm hại?

- Tâu Bệ hạ. Giáo chủ Charya nói: không bao giờ có một tôn giáo mới có thể thay thế được chúa trời đã an bài cho xứ sở chúng ta trong suốt hàng nghìn năm qua.

- Ta không rõ lắm. Ta không biết đó là thứ tôn giáo gì, và bọn chúng dùng bùa mê gì làm mê hoặc cả Thái tửJeta để rồi bán rẻ khu rừng quý giá. Rồi nay, đến cả Hoàng hậu cũng đòi cởi bỏ xiêm y để khoác tấm vải cà sa.

- Dạ… điều này thì Bệ hạ chớ lo. Tai mắt của thần, tên Narayan cho biết, đoàn khất sĩ kia chưa nhận môn đệlà nữ.

- Vậy sao?

- Dạ đúng như vậy, thưa Bệ hạ, giáo pháp của Buddha thực chất đã làm phương hại ghê gớm đến ích lợi và sự bình ổn xã hội chúng ta. Tâu Bệ hạ, Buddha cũng không nhận môn đệ chưa đến tuổi hai mươi. Tuổi hai mươi, thưa Bệ hạ, là tuổi sung mãn nhất, tuổi của sức mạnh, tuổi của chiến trận…

- Sao?

- Bệ hạ, bây giờ đoàn khất sĩ đã phình ra, rừng sala rồi sẽ không còn chỗ trú chân. Thần nghe tin, Buddha sắp sửa dẫn toàn bộ giáo đoàn hành hương về thành Kapilavatthu của vua cha Suddhodana. Về đến Kapilavatthu, giáo đoàn khổng lồ kia sẽ là đội quân hùng mạnh của vương quốc Sakya; đội quân thực hiện lời tiên tri của đạo sĩ Bà la môn về vị chuyển luân thánh vương.

- Ngươi nói sao? Này Govinda, chẳng lẽ…

- Bệ hạ, những gì trong tấu sớ hôm trước thần định dâng, thần đã nói rồi đấy ạ.

- Trời ơi! Sao ngươi không nói ta biết sớm. Được lắm, tên vua Suddhodana khốn nạn…

- Tâu Bệ hạ, thần sẽ ngay lập tức dẫn binh tới rừng sala.

- Mà, Govinda, ngươi cũng nên tham khảo ý kiến của Giáo chủ Charya.

 

7.

Rừng sala xao động. Chim muông đập cánh. Hoa sala phủ dày trên những tấm cà sa. Tiếng bước chân thình thịch tràn vào rừng.

Một sa môn chạy vào, lúc Phật đang ngồi với Đại đức Sariputta.

- Lạy Đức Thế tôn. Ngự quân đang kéo vào.

Phật vẫn ngồi yên, không một gợn sóng.

- Này con. Hôm qua ta vừa mới giảng kinh Niệm Xứ cho cả tăng đoàn. Chẳng lẽ con ngủ gật. Ta dạy hãy học cách an trú trong hiện tại. Ta vừa mới hành thiền, thấy con đang ngồi quán hơi thởVậy mà giờ con lại chạy tới đây?

Có người kêu lên. Tiếng gào. Máu. Asidana mới lập thiền, hai tên lính giằng người bật ngửa ra. Lưỡi giáo, sắc, nhọn, xuyên sâu… 

Đấy là lúc Govinda cùng năm tên hầu tới Muzaffur - một ngôi làng tồi tàn bậc nhất trong lãnh thổ trị vì của vua Pasenadi.

Malyahassa đang ghép những mảnh vải thô màu vàng xám, khâu áo cà sa.

- Ngươi, theo ta về cung!

Mắt Govinda long lên.

- Ngươi cũng định theo Hoàng hậu Mallika làm môn đồ của Buddha sao?! Khá lắm. Để ta tẩy trần cùng thể.

Bàn tay dài thòng, gã vươn tới túm lấy tấm sari quấn trên mình Malyahassa giật mạnh. Malyahassa theo đà xoay vòng, loạng choạng… Malyahassa rút cái trâm cài trên đầu. Mái tóc rũ xuống. Govinda hơi chùn. Một chút. Gã, nhếch mép. Quái dị.

- Ngươi định giết ta? Với bàn tay yếu đuối đó?

Ngực Malyahassa phập phồng dưới tấm sari mỏng còn một vòng quấn… Malyahassa không khóc, không sợ, nhưng không nói được, quay ngược mũi trâm vào ngực.

- Ngươi định làm gì? Chết à? Được lắm. Nhưng ta muốn ngươi nghe câu này của Buddha trước: “Nếu tự kết thúc sinh mệnh của mình…”.

Govinda lần nữa giật mạnh tấm sari. Malyahassa chao về phía gã... Chính tấm sari của Malyahassa trói cô lại.

Những làn roi vụt xuống. Máu. Govinda sướng rân nhìn máu rịn ra dưới mỗi làn roi. Làn roi xé bươm mảnh vải lót trên thân thể Malyahassa.

Rừng sala. Hoa tơi tả trên vai áo cà sa, mỏng tang từ từ vương xuống. Đức Phật dần nhập tĩnh.

Malyahassa bỗng nghe thấy lời Đức Phật:

“Malyahassa, nếu bây giờ con thấy được kiếp trước của mình, con sẽ phát điên bởi tội lỗi mình đã gây ra cho kẻ khác. Qua nhục nạn này xem như con hoàn bồi nghiệp lực…”.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 922)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1243)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 712)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 682)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 754)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 764)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 745)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 737)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 887)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 772)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 931)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 934)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 860)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 869)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 808)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 955)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 889)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 831)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 920)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 840)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 796)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 894)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 826)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1079)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 857)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 946)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1089)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1566)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1101)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1173)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1048)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 914)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 861)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 893)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 750)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1426)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1300)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1263)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1209)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1327)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1270)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1405)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1283)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1151)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1201)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1253)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1236)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
(Xem: 1359)
Sống trên đời, có ai không mang ít nhiều âu lo? Người nghèo thì lo làm thế nào để mọi người trong gia đình mình đủ ăn đủ mặc.
(Xem: 1254)
Trong những chúng đệ tử Phật, thì chúng cư sĩ tại gia chiếm số lượng đông đảo và có những ảnh hưởng nhất định đối với diện mạo của Phật giáo nói chung.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant