Subscribe HoaVoUu Youtube
Kính mời Subscribe kênh
YouTube Hoa Vô Ưu
Sitemap Hoavouu.com
Điền Email để nhận bài mới

Ý Nghĩa Của Sự Cầu Nguyện

17 Tháng Mười Một 201611:10(Xem: 8767)
Ý Nghĩa Của Sự Cầu Nguyện
Ý NGHĨA CỦA SỰ CẦU NGUYỆN 

Thích Viên Giác

Ý Nghĩa Của Sự Cầu Nguyện

 

I. LỜI MỞ ĐẦU
Cầu nguyện
 là một nhu cầu tinh thần của con người, một nhu cầuchính đáng. Trước hết là giải toả các ức chế tâm lý do áp lực củahoàn cảnh, của thất vọng trong tình cảm, những bức xúc trong các mối quan hệ xã hội. Thứ đến cầu nguyện là thể hiện các ước mơ, niềm hy vọng của con người về đời sống hiện thực hay lý tưởng, dù sao cầu nguyện vẫn là một biểu hiện của thiện tâm, nghĩa là khi một người chấp tay, cúi đầu trước bàn thờ Phật, Thánh, lòng họ trở nên khiêm hạ, cái ” Ta” trở nên nhỏ bé, lương tâm thổi dậy và tâm hồn họ được bình hoà.

Sự cầu nguyện trong đạo Phật còn là một pháp môn tu tập của người phật tử, nhờ cầu nguyện mà nguyện lực của họ mạnh mẽ,niềm tin tăng trưởngthiện nghiệp được phát huy, ác nghiệp được tiêu trừ, tâm xu hướng lộ trình giải thoát.

Trong ý nghĩa thông tục, cầu nguyện là một biểu hiện lòng nhớ ơn, đền ơn đáp nghĩa đối với tổ tiên, ông bà, cha mẹ, người thân… một biểu hiện của tình thương yêu, quan tâmlo lắng đến nhau như các cầu nguyện: cầu siêu,cầu ansám hối …

Sự cầu nguyện ban đầu như là biểu hiện của sự lo lắng vị kỷ, nhưng dần dần do bản chất của sự cầu nguyện sẽnâng cao tinh thần vị tha. Những lời khấn nguyện, niệm hương, bạch Phậtphục nguyệnhồi hướng, trong đạo Phật đều mang tính 2 mặt cho mình và cho chúng sinh. Nghĩa của sự cầu nguyện là nâng cao đời sống tinh thầnvà củng cố niềm tin cho chính mình và tha nhân.

II. CÁC HÌNH THỨC CẦU NGUYỆN

Hình thức cầu nguyện, khái quát gồm 4 loại: cầu siêu, cầu an, cầu sám hối, cầu tiến bộ tâm linh:

1. Cầu siêu: là cầu nguyện cho ông bà, cha mẹthân quyến đã qua đời được siêu thoát, được an lành thế giới bên kia. Như vậy cầu siêu là biểu lộ sự quan tâmlo lắng, sự thương yêu giúp đỡ cho người thân của mình. Sự quan tâm đối với người đã chết không thể làm gì khác hơn là cầu nguyện. Nhu cầu và thực hành cầu siêu nói lên nhân sinh quan và vũ trụ quan của Phật giáo vừa nhân bản vừa rộng rãichấp nhận ngoài thế giới hiện thực này còn cóthế giới khác mà ta gọi là vô hình.

2. Cầu an: là cầu nguyện cho người thân của mình hoặc chính bản thân mình được an lànhvượt qua các tai ương hoạn nạn. Vậy cầu an cũng thể hiện mối quan tâm lo lắng và thương yêu giúp đỡ cho tha nhân, nhất là trong lúc mình không làm được gì khác hơn là cầu nguyện. Nhu cầu cầu an cũng nói lên tinh thần đạo đức của ngườiphật tử khi đứng trước nổi bất hạnh của kẻ khác.

3. Cầu sám hối: Là cầu nguyện cho những lỗi lầm vụng dại của mình đã làm không còn tái diễn nữa, bày tỏ sự hối hận ăn năn, mong sự chứng giám và tha thứ của các đấng thiêng liêng hay cả của những người mà mình đã gây khổ cho họ. Có khi người ta cũng cầu sám hối giúp cho người thân của mình. Nhu cầu sám hối nói lên tiếng nói của lương tâm, của đạo đức và của trí tuệ.

4. Cầu tiến bộ tâm linh: Là cầu nguyện cho tâm hồn của mình được phát khởi thiện tâm, phát huy được trí tuệ vượt qua nghiệp chướngma chướng để sớm thành tựu được mục tiêu giải thoát của mình. Nhu cầu cầu nguyện tâm linh tiến bộ nói lên tinh thần quyết tâm cầu tiến, nói lên ước vọng tìm kiếm chân lý của ngườu phật tử.

Tóm lạimục đích cầu nguyện là mang đến lợi ích cho kẻ chết, người sống, đem đến thiện pháp tăng trưởngác pháp tổn giảm, tâm lực củng cốniềm tin vững chãi hơn.

III. ĐỐI TƯỢNG CẦU NGUYỆN

Tùy theo niềm tin tôn giáotín ngưỡng mà có các đối tượng cầu nguyện khác nhau. Đối với người phật tử, đối tượng cầu nguyện căn bản là Tam bảo (Phật, Pháp, Tăng) cụ thể thì các Đức Phật Bổn Sư, Phật Di Đà, PhậtDược SưPhật Di Lặc, các vị Bồ tát, thánh hiền… Đối tượng cầu nguyện dân gian thì có tổ tiênthần thánh (thánh mẫu, quan công…) ông bà cha mẹ đã qua đời, các linh hồn vất vưởng cho đến các gốc cây, cụa đá hay các sinh vật như cọp beo… Tóm lại tất cả mọi thứ nếu được coi là thiêng liêng.

Người phật tử chân chính chỉ cầu nguyện đối với Tam bảo, các Đức Phật, các vị Bồ tátThánh Tăng. Những Phật tử chưa thuần thục đạo pháp họ vừa cầu Phật, vừa cầu thần, nếu cần họ có thể cầu luôn cỏ cây, đá núi… NhữngPhật tử như thế Đức PhậtBồ tát đối với họ không khác các vị thần bao nhiêu.

Vì lý do là đối tượng của cầu nguyện nên Đức Phật Bồ tát mang sắc thái thần thánh đầy quyền năng, không ai coi Phật, Bồ tát là người bình thường, nên đối tượng của cầu nguyện là mang tính thiêng liêng. Đã là đối tượng linh thiêng thì ranh giới giữa đối tượng này với đối tượng kia về bản chất tâm lý hầu như không có, tất cả đều bình đẳng. Đối tượng được coi là linh thiêng thường là không hiện thực, nhưng đầy quyền năng siêu việt. Nếu một đối tượng linh thiêng mà hiện thực thì sớm muộn gì cũng bị bỏ quên và bị bôi bác bởi chính con người thờ họ. Một người khi cha mẹ còn sống họ đối xử bình thường đôi khi coi thường nữa, nhưng khi cha mẹ mất đi họ trở nên tôn trọng cung kính rất đặt biệt, họ thể hiện niềm tôn trọng ấy băng nhiều cách để gọi là có hiếu, họ than thở, tiếc nuối ân hận… Nếu cha mẹ họ nghe lời khấn nguyện của họ mà xúc độngsống lại thì họ vẫn đối xử như xưa .

Đối tượng của cầu nguyện, tuỳ theo trình độ văn hoá, phong tục, tập quán, tôn giáotín ngưỡng mà khác nhau, đó là một thế giới muôn màu muôn vẻ. Dù sao đã là đối tượng của cầu nguyện thì phải linh thiêng, phải hoàn hảo,quyền năng vô tận và có tác dụng ảnh hưởng đến tâm thức của người cầu nguyện.

IV. TÁC DỤNG CỦA CẦU NGUYỆN

Có người cho rằng cầu nguyện là vô ích, không có tác dụng gì, làm sao có tác dụng được khi lạy lục cầu xin trước một pho tượng bằng đất, đá, xi măng, gỗ …? Nghĩ như vậy quá duy lý. Tượng Phật, Tượng thánh chắc chắnkhông phải ông Phật thực mà đó chỉ là tượng trưng hay biểu tượng (symbolizes). Điều quan trọng là yếu tố tinh thần đằng sau pho tượng và trong tâm thức của người cầu nguyện. Không ai lại khờ khạo lạy lục cục đá hay gốc cây cả, chẳng qua là cục đá hay gốc cây ấy có giá trị biểu tượng thiêng liêng ở đằng sau. Khi ta nghiêng mình cúi đầu một cách cung kính tôn trọng lá cờ tổ quốc không phải là ta tôn trọng miếng vải mà chính là ý nghĩa tinh thầnmà tấm vải đeo mang. Khi một vật thể là vật chất nhưng trở thành đối tượng thiêng liêng thì nó không còn thuần tuývật chất nữa mà thành đối tượng có sức sống, có tác dụng đối với con người và hoàn cảnh xung quanh.

1. Tác dụng của cầu siêu: Cầu siêu là cầu nguyện Tam bảo phù hộ cho linh hồn đã mất được nhẹ nhàng siêu thoátở thế giới bên kia cầu được sinh về cõi cực lạc của Đức Phật A Di Đà cầu như vậy có siêu không?

Ở trong kinh Địa Tạng có đề cập đến tác dụng kinh cầu nguyện cho người chết rằng: Khi tụng kinh Địa Tạng cầu nguyện thì công đức có được 7 phần, người tụng được sáu, người chết được một phần. Tại sao người được cầu nguyện chỉ được một phần? điều dễ hiểu là khi tụng kinh Tam nghiệp thanh tịnhcông đức phát sinh năng lực công đức có trước hết là người tụng, rồi sử dụng năng lượng công đức ấy hướng đến người đã chết tất nhiên người chết sẽ nhận được một, phần năng lượng ấy, trong khi người tụng là người suất sinh công đức.

Trong kinh Vu Lan đề cập đến sức mạnh chú nguyện của chư Tăng, nhờ sức mạnh của Tăng lực mà bà Thanh Đề thoát khổ, năng lượng của Tăng là năng lượng tập thể nên có tác dụng lớn, nó tạo một ảnh hưởng mạnh mẽ vào tâm thể của bà Thanh Đề làm cho bà thay đổi tận gốc rễ nghiệp bất thiện của mình mà thoát khổ. Trong kinh Địa Tạng cũng đề nghị phương pháp giúp cho người chết thoát khổ bằng cách xử dụng tài sản của họ vào việc công ích bố thícúng dường hồi hướng công đức cho họ sẽ được lợi ích lớn. Tất cả những điều diễn tả trong kinh muốn nói lên một sự thực rằng nếu xử dụng năng lượng tâm linh đúng chánh pháp sẽ tạo khả năng biến chuyển hay thay đổi tâm thức và đời sống của một chúng sinh đau khổtrường hợp bà Thanh Đề là một ví dụ.

Cầu siêu cho ông bà cha mẹ còn có ý nghĩa bày tỏ lòng tri ân và báo ân đối với các bậc Tiền nhân đã sinh ra vànuôi dưỡng mình nên người. Sự biết ân và báo ân là một đức tính tốt, hiền thiện, là đạo đức xã hội, là một nét văn hoá văn minh của loài ngườiCon người nếu không biết cội nguồn của mình, không biết ơn, nghĩa thì người ấy sẽ chết mất gốc; quá khứ không rõ ràng thì tương lai sẽ mờ mịtCầu nguyện cúng bái ông bà cha mẹ mong cho họ được siêu thoát là bài học về giáo dục đạo đức quan trọng: sự hiếu thảo của con cái, sự kính trọng người già cả, sự khiêm tốn thương yêu nhau đều tuy thuộc vào các sinh hoạt tinh thần mang tính truyền thống cao đẹp này.

2. Tác dụng của cầu an: Cầu nguyện cho mình hay người thân của mình được bình an là một cách thển hiện sựthương yêu, là một nhu cầu khẩn thiết. Nhưng cầu như vậy có hiệu quả không? Người xưa nói: ” Linh tại ngã, bất linh tại ngã”. Khi ta có niềm tin ta sẽ có sức mạnhSức mạnh tinh thần ấy gọi là năng lượng tâm linh, nếu ta cố ýchuyển năng lượng tâm linh ấy đến một người nào đó thì có tác dụng ảnh hưởng vào người ấy, đó là điều khó tin nhưng có thực. Mối quan hệ giữa tinh thần và thể xác, giữa tâm linh và thế giới khách quan là mối quan hệ duyênsinh tương tác lẫn nhau. Người ta có thể dùng sức mạnh tâm linh để tác động hay cảm hoá đến vật chất hay sinh vật, các vị thiền sư có thể cảm hoá hổ báo hung dữ, ngay cả loài thảo mộc nếu được thương yêu chúng cũng tươitốt hơn, đã có nhiều cuộc thí nghiệm của các nhà khoa học để chứng minh cho sức mạnh tinh thần này. Theo phong tục dân gian, khi người gia chủ qua đời thì người ta “để tang” cho cây cối xung quanh nhà bằng cách cột một mảnh vải trắng lên cành cây với hy vọng rằng cây sẽ bớt đau dớn mà khô héo. Điều đó có vẻ huyền hoặc nhưng được đúc kết từ kinh nghiệm dân gian rằng đã từng có cây cối khô héo và chết khi chủ nhân của nó qua đời, khi người chủ còn sống thương yêu săn sóc cây cối, hằng ngày ông ta phóng ra từ trường nhân diện haynăng lượng tâm linh vào cây cối, chúng quen sống với luồn điện từ như vậy, nay đột ngột mất đi chổ dựa ấy nhưcon người mất đi chổ dựa tình cảm, sẽ cảm thất hụt hẫng lạnh lùng… Cần phải có một sự quan tâm, một thay thế dòng sóng từ trường mới, đó chính là hành động của người chủ nhân kế thừa, nên có vấn đề để tang cho cây cối.

Khi một người phóng ra một năng lượng tâm linh qua sự tập trung cầu nguyện, luồng năng lượng ấy sẽ tạo ảnh hưởng lên thể chất và tinh thần của người bị bệnh, bị tai nạn hay đối tượng được cầu nguyện. Người phát ra mộtnăng lượng tâm linh mà năng lượng ấy thuộc xu hướng nào nó sẽ tạo một hấp lực thu hút luồng năng lượng tương ứng trong không gian (có thể gọi là năng lượng của các Đức Phật hay Bồ tát) mà ta gọi là tha lực. Tuy theo sự tương tác ở mức độ nào mà khả năng, hiệu quả lớn hay nhỏ. Trong đời sống hằng ngày ta thường gặp nhau và chúc lẫn nhau “mạnh khoẻ” ” bình an” ” hạnh phúc”… nếu những lời chúc ấy có chú tâm, có thành tâm, có nhất tâmnó sẽ tạo ra năng lượng lành mạnh giúp ích cho người đươọc chúc.

Cầu nguyện cho người khác được bình an thể hiện tính tích cực của từ bivị tha, do đó tạo nên “đức độ”. Tâm ta càng xu hướng về vô ngã vị tha thì mối tương tác (cảm ứng) giữa tâm ta và tâm PhậtBồ tát (tha lực) sẽ chặt chẽ, do đó tác động mạnh đến người hay hoàn cảnh mình cần nguyện. Đó là sức mạnh vô hình nhưng có thực. Dĩ nhiên không phải ai cầu cũng ứng, cũng được an. Mọi tác dụng cảm ứng đều có điều kiệnnhân duyên có đủ hay không; một ngọn lửa bùng cháy phải đủ các điều kiện cho sự cháy, vậy không nên coi cầu an là phương pháp tối thượng mà chỉ là một “trợ duyên” Điều quan trọng vẫn là “nội lực” hay “nghiệp lực”. Cầu an đúng nghĩa là chuyển hoá nghiệp lực bằng cầu nguyện đó là mặt tiêu cực, còn mặt tích cực thì phải xây dựng một tâm đức bằng bố thí,phóng sanhcúng dường Tam bảo, giúp đỡ tha nhân… như vậy là tích cực chuyển hoá nghiệp lực, cần cả hai mặtnhư vậy kết quả mới tốt đẹp.

V. ĐẶC ĐIỂM CỦA CẦU NGUYỆN TRONG ĐẠO PHẬT

Trong kinh Trung A Hàm I, Kinh Ca Di NiĐức Phật nói về sự vô ích trong cầu nguyện đối với một số trường hợpnhư sau: “Có những người phạm chí tự cho mình có khả năng cầu nguyện, giúp cho người khác được sinh lên cõi trờiĐức Phật bác bỏ lời tuyên bố ấy, Ngài đưa ra một số trường hợp như: một người hung dữ, độc ác, luôn làm 10 điều ác. Người này sai khi chết được nhiều người tập trung lại cầu nguyệnvan xin thì cũng không thể lên cõi trời được. Giống như một người ôm một tảng đá lớn ném xuống sông rồi nhiều người khác tập trung cầu nguyệnvan xin “mong tảng đá nổi lên”, điều đó không thể được. Ngược lại một người làm 10 điều thiện sau khi người ấy chết, nhiều người tập trung cầu nguyện van xin “mong anh ta vào địa ngục” điều đó không thể xảy ra. Giống như một người ôm một thùng dầu đổ xuống sông, nhiềi người tập trung cầu nguyện “mong cho dầu chìm xuống đáy sông” điều đó không thể có được.

Như vậy giới hạn của sự cầu nguyện rất rõ: cầu nguyện không phải muốn gì được nấy, không phải là xin ơn trênthoả mãn các yêu cầu bất thiện của mình hay các niềm hy vọng của mình. Cầu nguyện về mặt tâm lý giải toả cácức chế nội tại, một tình trạng bức xúc cao độ, sự tuyệt vọng rất là nguy hiểm, cầu nguyện sẽ làm giảm áp lực ấy. Mặt khác cầu nguyện là bày tỏ những ước mơ, những hy cọng tạo nên khích lệ tinh thần tăng thêm sinh lực chocon người vốn gặp nhiều đau khổ.

Điều chính của sự cầu nguyện trong đạo Phật đó là sự chuyển hoá nghiệp lực. Nếu mình tạo tác ác nghiệp thì cầu nguyện là vô íchcầu nguyện theo hướng chuyển ác thành thiện thì sự cầu nguyện ấy được đạo Phật khuyến khích chấp nhận.

Thông thường khi nói đến cầu nguyện ta thường nghĩ là nhờ đến tha lực của Phật, Thánh… nhưng cầu nguyệntrong Phật giáo không phải thuần tuý nhờ vào tha lực mà nhờ vào tự lực là chính, cho nên câu nói: “Linh tại ngã bất linh tại ngã” diễn tả đúng ý nghĩa này.

Tại sao có người cầu nguyện linh ứng, người khác lại không? Điều đó tuỳ thuộc vào tự lực hơn là tha lực. Không phải Phật không thiêng mà chính là “tự lực” chưa đủ, nói cách khác lòng thành kính, sự thành tâmnhất tâm vànghiệp lực chưa đủ. Khi một người niệm Phật cầu nguyện vãng sanh cực lạc thế giới, nhưng niệm lực không đủ thì Phật không tiếp dẫn được. Trong kinh A Di Đà nói rõ: “Nếu có chúng sinh trước khi lâm chung mà niệm từ một cho đến mười niệm trong trạng thái” nhất tâm bất loạn” thì liền vãng sanh cực lạcChứng tỏ cầu nguyện vẫn dựa vào“tự lực” là chính.

VI. KẾT LUẬN

Cầu nguyện là một nhu cầu làm lắng dịu nỗi lo âusợ hãi phiền muộnthất vọngCầu nguyện cũng là một cách thể hiện những ước mơ thầm kín, niềm hy vọngniềm tin vào cuộc sống. Qua các phương cách và đối tượng cầu nguyệncon người có thể bày tỏ được niềm thương, nỗi nhớ sự biết ơn và báo ơn đối với ông bà cha mẹ, những người thân thuộc… Như vậy cầu nguyện là một loại hình văn hoá đem lại niềm tincủng cố đạo đức, thuần hoá tánh hung dữ của con người.

Hơn nữa, cầu nguyện làm tăng thêm nghị lựccủng cố niềm tin để hướng dẫn đời mình đi theo chân lýlý tưởngcao thượng.

Khi con người chưa làm chủ hoàn toàn thân tâm chưa vượt qua được những nỗi lo âusợ hãi, chưa đạt đượctrình độ tu chứngtự tại vô ngại thì cầu nguyện có tác dụng hổ trợ cho mình vững tiến trên đường đạo. Chỉ cần có sự thành thậtthành tâm và mục đích hướng thượng, hướng thiện thì sự cảm ứng của Phật lực… chắc chắn xảy ra. Điều cần thận trọng là đừng rơi vào cuồng tíncực đoanỷ lại. Nếu cầu nguyện không đúng chánh pháp haylạm dụng cầu nguyện để thực hiện tham vọng riêng tư thì không những không linh ứng mà còn phản tác dụng, tạo thêm ác nghiệp./.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
(Xem: 768)
Đức Phật là đấng Toàn giác, bậc trí tuệ siêu việt. Càng hiểu Phật phápcuộc đời, ta càng thấy những gì Đức Phật dạy là vô cùng đúng đắn.
(Xem: 1090)
Một cá nhân hay đoàn thể đệ tử Phật thực sự có tu tập giới-định-tuệ thì được mọi người kính trọng; sống hòa hợp, nhẫn nhịn, không tranh chấp đấu đá lẫn nhau chắc chắn được mọi người thương mến.
(Xem: 1263)
"Một thời Đức Phật du hóa tại nước Xá-vệ, trong rừng Thắng, vườn Cấp Cô Độc. Bấy giờ, khi đêm đã qua, vào lúc trời vừa sáng, Đức Thế Tôn đắp y mang bát vào nước Xá-vệ. …
(Xem: 991)
Thánh hiệu của Bồ-tát Quán Thế Âm, tại Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc là Thánh hiệu mà không ai chẳng biết.
(Xem: 1331)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thânnhững tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui,
(Xem: 782)
Con người khổ đau vì không biết và không thể sống đời sống chân thực (real life). Đời sống chân thựctrong bài này được gọi là “thực tại của đời sống”.
(Xem: 750)
Duy Thức Tam Thập Tụng, tác giả: tổ Thế Thân (316-396), dịch giả Phạn - Hán: Tam Tạng Pháp Sư Huyền Trang (602-664), có tất cả 30 bài tụng
(Xem: 801)
Đầu Xuân năm Tân Sửu, tôi có dịp sang chùa Khánh Anh ở Pháp, đã gặp Đạo hữu Seng Souvanh Khamdeng Pháp Danh Quảng Chơn, là chồng của Cô Trung Diệp Phạm Thị Hợi, vốn là em gái của cố Hòa Thượng Thích Tuệ Sỹ.
(Xem: 819)
Việc nâng cao các tiện nghi vật chấtphương tiện hỗ trợ phát triển bản thân những tưởng giúp ta cởi bỏ phiền lụy để sống an vui, nhưng thực tế, ta vẫn còn tiếp tục loay hoay giữa rối ren.
(Xem: 791)
Nước chảy mây bay có khoảnh khắc nào ngưng, hoa rơi lá rụng bốn mùa luân chuyển, người đến rồi đi cũng chưa từng gián đoạn bao giờ.
(Xem: 777)
Khi bạn giữ hơi thở trong tâm, bạn gom bốn niệm xứ vào một. Hơi thở là thân, các cảm giác (thọ) nằm trong thân, tâm (tưởng) nằm trong thân, phẩm chất tinh thần (pháp) nằm trong tâm.
(Xem: 934)
Đêm dần tàn và ngày i đang lên Băng tuyết lạnh mần thủy tiên đã nhú Mùa đông trắng cành đào hồng đơm nụ Xuân rạng ngời hoan hỷ đợi muôn hoa
(Xem: 820)
Khi thân yên, ta có thể hiểu biết về thân. Khi tâm tĩnh lặng, ta có hiểu biết về tâm. Khi hơi thở tĩnh lặng, ta có hiểu b
(Xem: 977)
Phật rời khỏi thế gian này rồi, lưu lại một số kỉ niệm cho chúng ta, chúng ta chiêm ngưỡng lễ lạy như Phật còn tại thế.
(Xem: 988)
Qua lịch sử, người ta đã vạch ra, lên án những hành vi, những con người hung ác nhưng chưa định nghĩa thế nào là hung ác.
(Xem: 918)
Trong vài thập niên gần đây, thuật ngữ “tâm linh” trở nên rất thời thượng, tràn ngập khắp trên mặt báo chí, truyền thông, mạng xã hội,
(Xem: 918)
Trong kiếp Đức Thích Ca thành PhậtẤn Độ, người đối nghịch, thậm chí phá hoại đưa đến âm mưu sát hại Ngài là Đề Bà Đạt Đa.
(Xem: 845)
Không áo mão cân đai. Không y hồng hiệp chưởng. Một bộ y hậu thường nhật mà thôi. Nơi khám thờ hậu Tổ, một di ảnh đơn sơ, bình dị, vậy mà bao nhiêu bài viết đã xưng tánThiền Sư.
(Xem: 1001)
Con người được mô tả gồm hai phần: Thể xác và tinh thần. Theo thuật ngữ Phật học thì thể xác tức thân thể con người gọi là “Sắc”, còn tinh thần là “Danh” tức là tâm.
(Xem: 944)
Tâm từ bi, lòng trắc ẩn và không làm tổn hại là những những giá trị phổ quát trong Phật giáo, cho nên đối với người dân Bhutan
(Xem: 888)
Trong đời mỗi chúng sinh, đặc biệtcon người, sinh tử vẫn là điều làm cho chúng ta bất an, lo sợ nhất, dẫu biết rằng không ai thoát khỏi quy luật này
(Xem: 982)
Tham ái với thân, tập trung lo cho thân tứ đại một cách thái quá, đó là trói buộc.
(Xem: 894)
Không hiểu con người biết thương-ghét tự bao giờ? Chắc chắnkhi còn nằm trong bụng mẹ thì không có thương-ghét.
(Xem: 840)
Từ lâu chúng ta nghe nói nhiều về xá lợi, trong đó xá lợi Phật và chư thánh Tăng với lòng sùng tín.
(Xem: 946)
Tôi không biết. Nhưng tôi biết có kiếp trước. Làm sao biết? Bởi vì nếu khôngkiếp trước, làm sao có tôi ở kiếp này?
(Xem: 875)
Doanh nhân hiện nay không riêng gì ở Việt Nam đang đối đầu với nhiều khó khăn: tình trạng mất đơn hàng do ảnh hưởng suy thoái toàn cầu,
(Xem: 1135)
Dùng bè để qua sông, qua sông rồi thì bỏ bè là thí dụ nổi tiếng về pháp phương tiện trong kinh Phật.
(Xem: 902)
Ông cha ta có câu “gieo nhân nào gặt quả ấy” hay “thiện có thiện báo, ác có ác báo”.
(Xem: 1000)
Các anh chị GĐPT đồng phục áo lam, hoa sen trắng đã nhất tề cung nghinh kim quan Đạo Sư, mà bao lần Đạo Sư đã khuyến thỉnh, sách tấn để giữ trọn phương chăm Bi, Trí, Dũng GĐPT Việt Nam, thể hiện một chút tình, gánh kim quan trên vai để đền ơn đáp nghĩa.
(Xem: 1134)
Đạo Phật do đức Phật Thích Ca mâu Ni (Sakya Muni Buddha) khai sáng ở Ấn Độ. Căn bản của giáo phápTứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo
(Xem: 1603)
Hình ảnh, âm thanh đi vào cõi vô tung, đồng vọng ngàn sau, bặt tích, hay lưu lộ hình ảnh đôi bạn chân tình nơi chốn hiu hắt bụi đường mà đôi chân không hề mỏi.
(Xem: 1152)
Con đường giải thoát, tức là Bát Chánh Đạo. Có thể gói trọn vào một câu, hay hai câu, hay vài câu được không?
(Xem: 1244)
Nhĩ căn viên thông là khả năng mà Bồ-tát Quán Thế Âmthành tựu được nhờ vào sự tu tập ba phương pháp lắng nghe, tư duy và hành động (Văn, Tư, Tu).
(Xem: 1102)
Người xưa nói “Lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Dù cho miệng lưỡi thế gian có thế nào chúng ta vẫn an nhiên, “tâm không bị biến đổi, miệng không phát ra lời nói cộc cằn”
(Xem: 961)
Immanuel Kant (1724-1804) là triết gia vĩ đại, người sáng lập ra nền triết học cổ điển Đức.
(Xem: 908)
Tu tập hằng ngày chúng ta thường được các vị Thầy hướng dẫn, nhắc nhở nếu muốn giác ngộ, thoát khổ,
(Xem: 948)
Ven. Pannyavaro là một tu sĩ Phật giáo người Úc, Ngài đã cống hiếncả đời mình tu tập thiền định theo giáo lý Đức Phật.
(Xem: 792)
Kinh, Luật, Luận của Phật Giáo cả Nam Truyền lẫn Bắc Truyền đọc tụng suốt cả đời cũng không hết. Bởi lẽ lời Phật, lời Tổ quá sâu sắc nhiệm mầu
(Xem: 1473)
“Để được làm người, sinh mệnh đó thực sự may mắn”.
(Xem: 1350)
Quan điểm của Phật giáo nói chung, mọi biến động của đời sống tự nhiênxã hội đều là biểu hiện của nghiệp, do nghiệp lực của nhân loại hiện hành chi phối.
(Xem: 1320)
Trong Phật giáo Đại thừa, bản chất của sự giác ngộ được gọi là bồ đề tâm, có nghĩa là tâm thức tỉnh.
(Xem: 1258)
Vào thế kỷ trước khi Đức Phật đản sinh, vùng đông bắc Ấn Độ đã trải qua những biến đổi sâu rộng làm định hình lại địa chính trị của khu vực một cách sâu sắc.
(Xem: 1363)
Tâm trí của Đức Phật được gọi là bồ đề tâm, nghĩa đen là “tâm giác ngộ”. Bồ đề tâm có hai khía cạnh
(Xem: 1317)
Hệ thống kinh điển trí huệ (bát nhã) tánh Không thường được xếp thành ba phạm trù: Văn tự Bát nhã, Quán chiếu Bát nhã, và Thật tướng Bát nhã.
(Xem: 1462)
Tăng đoàn thời Đức Phật còn tại thế không những có hai giai cấp quyền quý tại Ấn ĐộBà La Môn như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp,…
(Xem: 1343)
Lịch sử truyền thừa của Ni giới ở một số bộ phái Phật giáo nói chung mãi đến hôm nay vẫn còn nhiều vấn đề chưa thể lý giải trọn vẹn.
(Xem: 1196)
Thiện ngữ là nói lời lành, chân thật, nhẹ nhàng, xây dựng, đoàn kết, yêu thương.
(Xem: 1254)
Cuộc sống rất ngắn ngủi, vì thế hãy phá bỏ cái tôi ngớ ngẩn của mình, nhanh chóng tha thứ, tin tưởng yêu thương thật lòng
(Xem: 1314)
Một thời, Thế Tôn trú ở giữa dân chúng Sakka, tại Kapilavatthu, ở khu vườn Nigrodha.
(Xem: 1295)
Bốn pháp giới Sự, Lý, Lý Sự vô ngạiSự Sự vô ngại là những từ ngữ của tông Hoa Nghiêm.
Quảng Cáo Bảo Trợ
Gủi hàng từ MỸ về VIỆT NAM
Get a FREE Online Menu and Front Door: Stand Banner Menu Display for Your Restaurant